Người Si La ơn Đảng

Đời sống - Ngày đăng : 12:54, 03/02/2018

Cuộc sống khắc nghiệt nơi núi cao rừng thẳm đã có lúc đẩy dân tộc Si La đến bờ vực suy thoái giống nòi, thế nhưng, dưới sự quan tâm của Đảng và Nhà nước cùng với sự chung tay của cộng đồng, cuộc sống của đồng bào đang ngày một tốt đẹp hơn.

Và, dẫu nhỏ bé nhưng những “người anh em” ấy cũng đã có nhiều đóng góp quan trọng trong việc giữ gìn an ninh trật tự và bảo vệ an ninh Tổ quốc. Những giá trị văn hoá bao đời của họ được lưu giữ và phục dựng, dệt thêm gấm hoa cho bức tranh văn hoá đa sắc màu của đất nước. Họ mãi là một bộ phận không thể tách rời trong cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam…

Hồi sinh bên dòng Nậm Sin

Người Si La thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng - Miến và phần lớn sinh sống ở Lào. Người già Si La kể lại rằng, khoảng gần 150 năm trước, các dòng họ Pờ, Hù, Lỳ, Giàng bên dòng Nậm U nước Lào di cư về phía đông. Vào đến đất Việt, người Si La men theo sông Nậm Mức về sinh sống ven cánh rừng nguyên sinh phía Tây Bắc huyện Mường Tè tỉnh Lai Châu. Theo thống kê trước năm 2005, người  Si la ở Việt Nam sinh sống chủ yếu tại một số bản như Seo Hay (Can Hồ, Mường Tè, Lai Châu) và Nậm Sin (Chung Chải, Mường Nhé, Điện Biên), dân số có chưa tới 1000 người nhưng có tới 80% tỷ lệ hộ đói nghèo, cứ 10 người thì có một người bướu cổ, 73% trẻ em bị suy dinh dưỡng, tỷ lệ trẻ sơ sinh bị tử vong chiếm tới 10%. Do sinh sống biệt lập tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết diễn ra phổ biến nên nguy cơ suy giảm giống nòi của dân tộc Si La luôn hiển hiện.

Người Si La ơn Đảng

Lễ cúng bản của dân tộc Si La   

Khác với người Kinh, người Thái, biết trồng lúa nước từ hàng nghìn năm trước, người Si La mới quen với cái cày, con trâu và trồng cây lúa nước từ khoảng hơn chục năm nay. Đó là cũng nhờ những mùa vụ trước, Bộ đội Biên phòng đã khai hoang, dạy bà con cày bừa, cấy hái, hướng dẫn cho bà con cách chăm sóc cải tạo đất, cách chọn giống, bón phân. Đến nay, thì bà con đã biết làm lúa hai vụ, đã biết làm thủy lợi dẫn nước về đồng.

Nói về những cái khó khăn vất vả của đồng bào, Bộ đội Biên phòng là người hiểu rõ nhất. Nói về cái đói, cái nghèo trước đây thì người già là nhớ nhất. Vợ chồng ông Lỳ Chà Che và bà Hù Cố Bá ở Nậm Sin lấy nhau từ khi mười bốn mười lăm tuổi, nhà cửa khi đó, dựng tạm bằng tre nứa, lợp bằng lá cây, phát được mảnh nương, chọc lỗ trên đất, gieo hạt lúa xuống thì phó mặc cho trời, 8 chín tháng sau mới có hạt thóc để ăn, con cái đẻ ra thì tự trông nhau mà lớn, đói quá thì ra suối bắt cá hoặc vào rừng hái măng để ăn. Bà Hù Cố Bá thành thật bày tỏ: “Ngày xưa chúng tôi lấy nhau, lúc ấy khổ lắm. Nhà ít người nên phải đẻ nhiều, đẻ nhiều nhưng cũng mất nhiều, không nuôi được. Hai vợ chồng cứ phát rừng, làm nương, đói quá thì đào củ măng, củ mài, hái rau ăn. Ngày xưa đói lắm, không biết đâu mà kể”.

Những ngày khó nhọc của vợ chồng bà Bá giờ mãi chỉ còn trong ký ức, bởi được sự hỗ trợ của Chính phủ, kể từ năm 2005, tỉnh Điện Biên triển khai Dự án hỗ trợ phát triển dân tộc Si La, tạo tiền đề để bản Nậm Sin thay da đổi thịt. Dù chỉ có vài chục hộ dân nhưng bản được đầu tư xây dựng một con đường riêng về tận xã, nhiều hộ gia đình được hỗ trợ làm nhà ba cứng, bà con được tập huấn các mô hình sản xuất, hướng dẫn kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt. Bên cạnh đó, Bộ chỉ huy Biên phòng tỉnh Điện Biên đã cử một đội công tác tăng cường về bám dân, giúp dân phát huy tối đa những hiệu quả mà dự án đã mở ra.

Với hạ tầng sẵn có, cán bộ nông nghiệp thì hướng dẫn thời vụ, tập huấn kỹ thuật canh tác, phòng trừ sâu bệnh và dịch hại cũng như lựa chọn con giống, vật nuôi cho phù hợp với từng hộ gia đình; bộ đội thì giúp bà con sửa sang chuồng trại ruộng vườn, làm sạch môi trường, tổ chức khám chữa bệnh, phát thuốc cho bà con. Sau hai năm, Nậm Sin đã có những thay đổi rõ rệt ngay cả trong nếp tư duy cũng như sinh hoạt của người dân: đường làng ngõ xóm phong quang, bệnh ở người, bệnh gia súc không phải mời thày cúng nữa.

Theo ông Hù Chà Thái, Chủ tịch UBMTTQ xã Chung Chải, trước đây do giao thông đi lại khó khăn, hiểu biết của đồng bào còn hạn chế, khoa học kỹ thuật còn sơ khai nên mãi bị cái nghèo cái đói đeo đẳng. Nhưng giờ đây, nhờ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước quan tâm, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cùng với các chính sách đãi ngộ nên đời sống của đồng bào ngày càng khởi sắc. Thậm chí cũng đã có nhiều người giàu lên nhờ chịu thương chịu khó cũng như năng động, tìm tòi, sáng tạo trong sản xuất.

Làng bản dần no ấm

Từ Nậm Sin, chúng tôi đi ngược núi để tiếp tục đến với bản Seo Hay, xã Can Hồ, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu. Ngay lối vào bản vẫn còn nguyên vẹn chiếc cổng được người Si La dựng cho lễ cúng bản. Ông Hù Chà Khan, 71 tuổi, ở Seo Hay tự hào cho biết, chiếc cổng này được những người đàn ông Si La dựng nên mỗi năm nhằm đem lại sự tốt lành, may mắn, mùa màng bội thu cho cả bản. Trên khung cửa gỗ, ngoài các phên mắt cáo ngăn điều dữ, người Si La còn bó lá dong riềng, bện cỏ tranh, móc mắt xích nan tre cùng hàng loạt các loại gươm, dao, tên, súng bằng gỗ trang trí khắp xung quanh.

Người Si La ơn Đảng

Ông Hù Chà Khan: “Nhờ Đảng và Nhà nước quan tâm, đầu tư, giờ đời sống của đồng bào đã dần khá lên”

“Mỗi khi làm lễ cúng bản thì chỉ có đàn ông Si La được phép tham dự. Đồ tế lễ gồm chó vàng và gà ác. Tiết của vật hiến sinh rưới lên các biểu tượng này. Sau đó đầu của các con vật sẽ được chôn dưới cổng để ngăn trừ điều dữ bước vào trong bản”, ông Khan chia sẻ.

Ở Seo Hay, nhà cửa truyền thống của người Si La mà chúng tôi bắt gặp là những ngôi nhà trệt được làm 4 mái, 2 gian, 2 chái và chỉ có một cửa ra vào gọi là “lớ cớ”. Khung nhà được làm bằng gỗ, mái bằng khung tre với các bức vách được thưng bằng gỗ, hoặc phên đan bằng nứa. Nhiều nhà có treo“Plạ” một hình thức bùa kiêng giống “ta leo”. Đặc biệt, ở người Si La, nhà nào có hai cửa thì đó chính là nhà của trưởng họ tộc.

Người Si La theo chế độ phụ hệ nên người phụ nữ chịu nhiều thiệt thòi. Theo luật tục, khi nhà có khách, phụ nữ Si La không được phép ăn cơm cùng mâm trên nhà. Trang phục của họ cũng có rất nhiều điều lý thú. Chiếc áo bó thân màu đen có những đường chỉ màu thêu nổi, cúc cài nách và được trang trí thêm hàng chục đồng tiền xu trước ngực áo, tạo nên một nét đặc trưng thật nổi bật. Váy mặc dài đến mắt cá chân với phần cạp váy gồm tấm khăn màu xanh khâu mép lặn vào trong nối với thân váy.

Gần đây, phụ nữ Si La còn khâu thêm các đường vải ở ống tay và gấu áo. Riêng thiếu nữ chưa chồng thì đội khăn trắng với vải ghép màu đỏ. Còn với phụ nữ có chồng phải vấn khăn đen hoặc xanh có hình hai múi sừng. Có lẽ chính bởi cách búi tóc này mà người Si La có câu hát rằng: “Khi con sâu chít chưa lớn, anh để cho con sâu chít nó lớn. Khi mái tóc em chưa dài, anh đợi đến khi mái tóc em dài. Tóc em dài đủ bới nên sừng. Để anh cưới em làm vợ…”.

Đứng trước sông dài, chợt hiểu dẫu cộng đồng dân tộc này thật ít người, song sự chân chất, nồng nàn thì không hề thiếu. Trong không gian rừng núi bên dòng Đà giang thẳm dốc, điệu múa sơn cước của những người phụ nữ Si La tha thước, dịu dàng, đong đầy nét duyên một thủa. Nhìn điệu múa đắm say ấy, tôi tự hỏi liệu đây có phải là những bước chân thiên di khi vượt ngàn băng núi với ước vọng về một miền đất trái ngọt cây lành còn đang ở trước mặt đợi chờ. Hay nỗi niềm của người già Si La nhớ về quê hương Mồ U xa ngái ngàn trùng, ngày về cũng chính là ngày nằm xuống trong lời khấn tiễn đưa. Ngoài điệu múa “Chò trì si a”, tạm dịch là “khăn thêu”, người Si La còn gìn giữ một số điệu múa trong các lễ hội như cầu mùa, vào mùa với các động tác mô phỏng hiện tượng thiên nhiên hay trong lao động và có sự giao thoa cùng ảnh hưởng lớn từ các dân tộc xung quanh như Hà Nhì, Thái, Mông…

Người Si La ơn Đảng

Một góc Nậm Sin

“Này các chị em ơi. Hãy cùng đi phát nương. Rồi tra hạt, làm cỏ. Cho mùa năm nay nhiều. Cho năm tới nhiều hơn. Cho đời ta no ấm…”. Ông Hù Chà Khan vừa hát vừa đưa chúng tôi đi thăm cánh đồng mới cấy bên sườn dốc sông Đà. Những người dân nơi đây chủ yếu sống nhờ hai vụ lúa, một vụ bắp. Từ ngày được nhà nước đầu tư xây dựng hệ thống tưới tiêu, lại được cán bộ hướng dẫn kỹ thuật đầy đủ nên sản lượng tăng cao, làng bản dần no đủ.

Dẫu vậy, ước mơ no ấm trong câu dân ca ngày nào giờ vẫn còn thấm đẫm trong từng lời nói của ông Khan, khi kể cho chúng tôi về những ngày mừng cơm mới: “Những ngày đó, ngoài các lễ vật như sóc, cua, cá, dưa, gừng, khoai sọ được chuẩn bị hiến tế, người Si La còn gặt trước lúa chín về hong khô giã gạo làm cơm mới. Dù lễ cơm mới chỉ tổ chức trong nhà trưởng họ nhưng thực chất lại mang tính chất và quy mô của cả cộng đồng”.

Và trong những ngày hội ấy, người Si La vui say bất tận trong điệu múa lời ca. Cuộc sống như vừa mới bắt đầu. Trong suy nghĩ của những người khách lạ như chúng tôi, Si La, những con người nhỏ bé với ước mơ rất đỗi bình thường nhưng khát vọng sinh tồn của họ mãnh liệt chả khác gì dòng Đà giang ngày đêm cuồn cuộn thác lũ.

Nam Hoàng