Đề xuất luật hóa quy định thu giữ tài sản bảo đảm
Ngân hàng Nhà nước vừa trình Chính phủ đề nghị xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng. Trong đó có đề xuất tại dự luật này là luật hóa quy định về quyền thu giữ tài sản bảo đảm.
Tại tờ trình, Ngân hàng Nhà nước đề xuất 03 nhóm giải pháp chính sách; thời gian trình Quốc hội khóa XV cho ý kiến và thông qua tại Kỳ họp thứ 9 (tháng 05/2025) theo quy trình một kỳ họp và soạn thảo theo trình tự, thủ tục rút gọn.

Theo Ngân hàng Nhà nước, mục tiêu của chính sách này là xử lý vướng mắc của các tổ chức tín dụng, tổ chức mua bán, xử lý nợ trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm, xử lý nợ xấu, nhằm đảm bảo cân bằng giữa quyền của chủ nợ và các quyền lợi hợp pháp của bên bảo đảm.
Các vướng mắc này phát sinh từ trường hợp người đang giữ tài sản không giao tài sản, tổ chức mua bán, xử lý nợ, tổ chức tín dụng phải khởi kiện và chờ thi hành bản án, quyết định của Tòa án theo Điều 301 Bộ luật Dân sự 2015.
Đồng thời, pháp luật mới chỉ ghi nhận quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc người đang giữ tài sản không giao tài sản để bên nhận bảo đảm xử lý tài sản bảo đảm mà không quy định trực tiếp quyền thu giữ tài sản bảo đảm của bên nhận bảo đảm.
Theo Ngân hàng Nhà nước, việc thiếu quy định này đã gây khó khăn rất lớn đến quyền xử lý tài sản bảo đảm của tổ chức mua bán, xử lý nợ và tổ chức tín dụng vì tổ chức mua bán, xử lý nợ cũng như các tổ chức tín dụng không thể thực hiện việc thu giữ nếu các chủ tài sản không đồng thuận, cố tình chống đối, thậm chí tạo ra các tranh chấp khác liên quan đến tài sản bảo đảm nhằm kéo dài thời gian xử lý tài sản bảo đảm.
Việc xử lý tài sản bảo đảm của tổ chức mua bán, xử lý nợ, tổ chức tín dụng bị kéo dài cũng làm ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả của việc xử lý nợ xấu, dẫn đến khó có thể khơi thông được nguồn vốn của hệ thống ngân hàng, làm ảnh hưởng đến mức độ an toàn, lành mạnh của hệ thống ngân hàng và là một trong những nguyên nhân làm hạn chế việc tiếp cận tín dụng, hạn chế khả năng tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng của nền kinh tế.
Ngoài ra, việc đẩy nhanh tốc độ và giảm chi phí xử lý tài sản bảo đảm, xử lý nợ xấu, từ đó góp phần giảm chi phí các khoản cấp tín dụng, hạ lãi suất, tăng cường khả năng quay vòng vốn và tiếp cận tín dụng của người dân và doanh nghiệp; tránh để phát sinh và bùng phát tình trạng người dân, doanh nghiệp tiếp cận “tín dụng đen”.
Theo Ngân hàng Nhà nước, trên thực tế, quá trình khởi kiện, tham gia tố tụng và tiến hành thi hành án theo quy định cho mỗi vụ án thường kéo dài nhiều năm, trong bối cảnh ngân hàng phải trích dự phòng rủi ro, dừng dự thu lãi trong khi vẫn phải trả chi phí huy động vốn hàng ngày.
Thực trạng đó tạo ra rủi ro lớn, đặc biệt cho tổ chức tín dụng có hàm lượng cho vay bán lẻ tỷ trọng cao, hướng tới kích cầu, phải xử lý rất nhiều món nợ xấu giá trị nhỏ, địa lý phân tán, dẫn đến chi phí hoạt động cao trong vấn đề thu hồi nợ và làm giảm khả năng đẩy mạnh cho vay khách hàng, khó giảm được lãi suất cho vay.