Văn hóa - Du lịch

Tiếng vọng Trần Thương

Nguyễn Văn Quý 31/01/2025 8:30

Tiếng trống Xuân giục giã, như thôi thúc con người bước vào hành trình khám phá lịch sử, văn hóa của dân tộc. Trong những huyền thoại được truyền đời qua bao thế hệ, câu chuyện về nơi an nghỉ của vị anh hùng dân tộc Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn vẫn luôn được dân chúng và nhiều nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm.

Lần theo huyền sử

Không theo dòng người nô nức dự Lễ hội đền Trần Nam Định, lần theo câu huyền sử trong dân gian: “Sinh Kiếp Bạc, thác Trần Thương, hương Bảo Lộc”, chúng tôi tới đền Trần Thương (thôn Trần Thương, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam) vào một ngày giữa tháng Giêng để “lật mở” những bí ẩn về đến Đức Thánh Trần.

Không ai biết câu thành ngữ trên lưu truyền trong dân gian từ bao giờ nhưng đây chính là căn cứ chủ yếu cho những ý kiến ủng hộ giả thiết phần lăng mộ Hưng Đạo Vương nằm ở đền Trần Thương.

nghe-trong-xuan-vang-tieng-vong-tran-thuong-4-.jpg
Đền Trần Thương

Sách Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sỹ Liên, quyển 6, kỷ Nhà Trần chép: “Năm Canh Tý (tức năm 1300), năm Hưng Long thứ 8, Hưng Đạo Đại Vương ốm. Mùa thu, tháng 8 ngày 20, Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn qua đời ở Vạn Kiếp (thuộc Hải Dương ngày nay).

Khi sắp mất, ông dặn con rằng: Ta chết thì phải hỏa táng, lấy vật tròn đựng xương, bí mật chôn trong vườn An Lạc, rồi san đất và trồng cây như cũ, để người đời không biết chỗ nào, lại phải làm sao cho mau mục”.

Có người nói An Lạc tức là tên ấp An Lạc vốn là đất “thang mộc” của Trần Liễu ở phủ Thiên Trường (tỉnh Nam Định). Hoặc An Lạc là một quả đồi nằm gần đền Kiếp Bạc (tỉnh Hải Dương). Có ý kiến lại nghiêng về câu thành ngữ “thác Trần Thương” thì cho rằng An Lạc phải là một nơi có liên hệ với vùng kho lương Trần Thương.

Theo Tiến sĩ sử học Ngô Vương Anh, có câu chuyện rằng khi Đức Thánh Trần qua đời, 5 cỗ quan tài được đưa đi về 5 hướng, làm lễ táng như nhau và cũng được che đậy, xóa dấu tích để không ai biết chính xác nơi nào mới thực sự là nơi thân xác ngài được an nghỉ. Trong khi, bản chú thích tại đền Trần Thương ghi lại đến 70 cỗ quan tài.

Truyền lời các cụ tiên chỉ của làng Trần Thương, rất có thể nơi đây là một trong những địa điểm bình phong hoặc chính là nơi an nghỉ thật sự của Đức Thánh Trần và hầm ngầm nơi giếng (hố) khẩu nằm ở trung tâm của ngôi đền, chính là nơi mang trong mình những điều huyền bí về nhục thân của ngài. Vậy nơi đâu mới thật sự là địa linh được Đức Thánh Trần chọn để thác về?

den-tran-thuong-11-2947.jpg
Tất cả cấu trúc của đường, giếng tạo nên thế đất riêng có của đền Trần Thương.

Để trả lời câu hỏi này, dựa trên phân tích về mặt triết tự, liên kết các sự kiện lịch sử, Nhà nghiên cứu văn hoá phương Đông Nguyễn Quang Minh đã đưa ra những phân tích sâu hơn về mối liên hệ của Đền Trần Thương và Đức Thánh Trần.

Theo Nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Minh, cần phải hiểu hơn về Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Nhìn từ câu chuyện lịch sử xoay quanh vị anh hùng này, có thể khẳng định đây không chỉ là một thiên tài quân sự, mà còn là một thiên tài toàn diện - “trên thông thiên văn, dưới tường địa lý”, đặc biệt hiểu về phong thủy.

Chính vì hiểu về phong thủy nên “Sinh Kiếp Bạc, thác Trần Thương, hương Bảo Lộc” không phải là thành ngữ, mà chứa đựng thuật ngữ phong thủy học. Khi xưa 14 đời nhà Trần đều lập nghiệp tại Côn Sơn Kiếp Bạc, nhưng toàn hộ lương thảo lại giữ ở Trần Thương, Bảo Lộc là nơi khởi đầu của những trận chiến.

Vị trí của Trần Thương là nơi hội tụ của 6 nhánh sông nhỏ từ Côn Sơn Kiếp Bạc chảy xuống. Từ đây, có thể đi ngược từ sông Hồng ra Thăng Long hoặc xuôi về biển Đông khoảng 3km là đến khu lăng mộ nhà Trần.

Nhìn ra địa thế này, Hưng Đạo Vương đã lựa chọn nơi đây để cất giữ lương thảo. Người Trung Quốc dùng thuật ngữ “mộ khố” (Hán-Việt) ý chỉ vị trí giấu ngân khố - quân lương lớn nhất đi liền với nơi chôn cất. Phải là người rất hiểu phong thủy thì mới luận được điều này.

Từ những phân tích trên, Nhà Nghiên cứu Nguyễn Quang Minh cho rằng, đây chính là lý do Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn chọn Trần Thương làm nơi chôn cất.

Giải mã huyền cơ

Lâu nay, nói tới Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, hay Đức Thánh Trần, người ta thường nghĩ ngay tới Đền Trần (Bảo Lộc, Nam Định). Bởi Phủ Thiên Trường - nay là Khu di tích Đền Trần Nam Định là nơi phát tích của Vương triều nhà Trần và được coi là kinh đô thứ hai của nước Đại Việt sau kinh thành Thăng Long.

Hàng năm cứ vào 14 tháng Giêng, các vua Trần lại tổ chức nghi thức Khai Ấn, tế lễ trời đất - tổ tiên, phong chức tước cho những người có công. Để tưởng nhớ công đức của các vua Trần, đúng 14 tháng Giêng, Lễ khai ấn Đền Trần đầu xuân tại khu di tích Đền Trần Nam Định cũng được ra đời từ đó.

Còn đền Trần Thương, theo lời thủ nhang Phạm Hải Hưng, Trần Hưng Đạo đã chọn làng Miễu nằm giữa sông Hồng và sông Châu Giang, nơi hội tụ của 6 nhánh sông nhỏ làm điểm cất kho lương phục vụ cuộc chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 2.

Sau khi chống quân Nguyên Mông thành công, ngài trở về đây phát lương khao quân dân, biểu đạt lòng biết ơn mọi người đã sát cánh với triều đình.

Đền được dựng lên sau khi Trần Hưng Đạo hóa thánh. Làng Miễu cũng chính thức mang tên làng Trần Thương kể từ đó, Trần Thương có nghĩa là kho lương của nhà Trần. Đến nay truyền thống phát lương vẫn được giữ vững hằng năm vào dịp tết Thượng Nguyên (rằm tháng Giêng âm lịch).

Lại nói về việc thờ cúng hàng năm, lâu nay, mỗi dịp đầu Xuân người dân đều kéo tới Đền Trần Nam Định để xin Ấn và cho rằng đây là nơi linh thiêng nhất để bái Đức Thánh Trần, nhưng theo nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Minh, đó chỉ là quan niệm dân gian.

Căn cứ cách dụng binh của Trần Hưng Đạo, vị trí khởi đầu là tại Kiếp Bạc, vị trí thứ hai là tại Đền Trần Nam Định, vị trí thứ ba cũng là vị trí cuối cùng và quan trọng bậc nhất chính là đền Trần Thương - nơi hội tụ thành quả của nhà Trần.

Chính bởi vậy, nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Minh cho rằng: Khi lễ bái cũng cần có trình tự. Bắt đầu từ ngày 14/8 âm lịch hàng năm lễ tại Côn Sơn Kiếp Bạc. Tiếp đó là lễ đền Trần Nam Định vào ngày 14, 15 tháng Giêng. Cuối cùng tới đền Trần Thương (từ 15 - hết tháng Giêng).

Đền Trần Thương gánh vác phần “tĩnh”, còn lại là "động", nếu không kết hợp “động - tĩnh” hài hòa thì việc lễ bái chỉ có cảm xúc, không có học thuật.

Tiếng trống vang từng hồi, các cụ diện lễ phục bước vào đền, trai tráng đã chỉnh tề chờ lệnh rước lương thảo vào kho, dòng người lớp lớp chờ được “phát lương”, cầu một năm may mắn, no đủ. Đền Trần Thương còn ẩn chứa bên trong nhiều câu chuyện huyền bí đang chờ khai phá.

Nguyễn Văn Quý