Miệt mài gieo chữ giữa biên cương
Đời sống - Ngày đăng : 21:04, 15/11/2017
Gặp người thầy giáo lành lẽ như cây rừng, lá bản trên biên giới Quan Sơn, Thanh Hóa, tôi chợt nghĩ đến những câu thơ trong bài "Lời ru của thầy" của tác giả Trần Ngọc Hưởng: "Mỗi nghề có một lời ru/ Dở hay thầy cũng chọn ru khúc này.../Hẳn là thầy cũng già thôi/Hóa thân vào mỗi cuộc đời các em/Thì dù phấn trắng bảng đen/Hành trang ấy đủ thầy đem theo mình".
Thầy Tư cùng các thầy cô giáo điểm trường Mùa Xuân hội ý bài giảng
Kiên trì vượt khó
Trời đông giá, hai gian nhà thưng nứa gió luồn cửa trước, sương vào cửa sau là khu nghỉ của các thầy cô điểm trường Mùa Xuân. Nó tuềnh toàng hết mức. Bên bếp lửa ngồi canh rét qua đêm với khách dưới xuôi, có cảm giác sự nhiệt tình, đôn hậu của thầy giáo Phạm Thế Tư, người đã tận tụy suốt mấy mươi năm qua vì sự nghiệp gieo chữ trên bản nhỏ vùng biên này có sức ấm lan tỏa hơn ngọn lửa.
Sinh năm 1964, sau khi tốt nghiệp trường sư phạm, thầy Tư đã xin về quê hương Quan Sơn giảng dạy. Vậy là 23 bản vùng cao của hai xã Na Mèo và Sơn Thủy, trong đó có những bản đặc biệt khó khăn như Khà, Xía Nọi, Mùa Xuân, Cha Khót... đều đã in dấu chân, quen giọng giảng bài của thầy. Và Mùa Xuân, cái bản nhỏ mang tên gọi đẹp đẽ nhưng khó khổ muôn vàn này cũng chênh vênh quá đỗi.
Người già kể rằng, nơi "thâm sơn cùng cốc" giáp biên giới Việt - Lào mà người dân bản địa còn chưa mấy ai đặt chân ấy cách đây 20 năm lại là "điểm đến" của hành trình di cư liều lĩnh của đồng bào Mông phía Tây Bắc. Từ mấy chục hộ dân ban đầu, giờ đây một chòm bản đã xanh cây ấm bụi, có chi bộ, có trường học, có đường bê tông và điện thắp sáng...
Nhưng cái đói, cái nghèo đã khiến cái chữ cũng nặng trĩu trên vai những người thầy. Thầy Thao Văn Dính, giáo viên điểm trường bản Mùa Xuân bảo: “Mỗi lúc các em học sinh nghỉ nhiều, thầy Tư đều động viên chúng tôi tranh thủ ngoài giờ, đến từng nhà, thậm chí vào tận trong rừng, lên tận nương rẫy... để vận động các em trở lại trường. Dù một lớp chỉ có 2 hay thậm chí 1 học sinh thì trường vẫn giữ nguyên lớp học. Chỉ mong rằng, mỗi ngày đến trường, sẽ không còn thấy em nào phải bỏ học vì mưu sinh...”.
Mong ước của các thầy cô là vậy nhưng quả thật Mùa Xuân vẫn luôn bị cái đói, cái nghèo đeo đẳng, chính vì thế mà việc vận động học trò đến lớp gặp rất nhiều trở ngại. Vì phần lớn các em trong độ tuổi đi học đều phải trông em hoặc phụ giúp bố mẹ mưu sinh, thế nên, vận động được các em tới lớp đã khó, nhưng để giữ được các em ở lại với lớp học lại càng khó hơn. Thậm chí, nhiều em ngồi trong lớp mà đầu óc vẫn váng vất ngoài nương rẫy, không chịu tập trung vào sách vở. Thầy giáo nhắc thì có em còn đòi bỏ về để chăn trâu, cắt cỏ hoặc vào rừng kiếm củi để đổi lấy cái ăn. Những tháng giáp hạt, mỗi ngày đến trường, các thầy cô giáo lại thấy lớp học vơi đi một ít.
Do tập tục canh tác truyền thống của đồng bào, sống nhờ vào nương, rẫy nên chuyện giáp hạt ở Mùa Xuân không phải là hiếm. Năm nào mưa thuận gió hòa, đồng bào có gạo, có ngô, còn lại thì trông cả vào rừng. Cái ăn đã khó, cái mặc còn thiếu hơn. Nhiều em nhà nghèo, cả mùa đông chỉ có mỗi một quần áo để vận vào.
Để phần nào giảm bớt khó khăn của các em, nhiều lúc thầy Tư cùng với mấy thầy cô giáo ở Mùa Xuân phải trích từ đồng lương của mình để mua sách bút, quần áo cho những em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Bên cạnh đó, thầy cô còn tích cực vận động các cấp, các ngành quan tâm giúp đỡ, ủng hộ về cơ sở hạ tầng, đồ dùng dạy học.
Vườn thuốc của thầy Tư
Thầy Tư bảo, ngoài những thiếu khó khăn về vật chất, để gieo được cái chữ xuống non cao, các thầy cô giáo ở Sơn Thủy nói chung, ở bản Mùa Xuân nói riêng còn phải vượt qua muôn vàn trở ngại khác. Ví như chuyện “bất đồng ngôn ngữ” và phong tục tập quán của những giáo viên từ dưới xuôi lên đây công tác. Điều đó còn đòi hỏi mỗi giáo viên phải nỗ lực rất nhiều để hoàn thành nhiệm vụ. Việc một giáo viên “cắm bản” luôn phải dùng “song ngữ” trong quá trình giảng dạy là chuyện bình thường. Đồng thời, để duy trì sĩ số lớp học, thì mỗi giáo viên ở đây cũng chả khác nào một tuyên truyền viên.
Ngoài chuyện lên lớp, các thầy cô còn phải tuyên truyền, vận động đồng bào xóa bỏ những mê tín dị đoan, những tập tục lạc hậu, giúp đời sống văn hóa ở mỗi bản làng dần tiệm cận với xã hội văn minh. Ví như việc ma tà bùa ngải hay chuyện lấy vợ lấy chồng sớm của người dân tộc.
Chữa bệnh cứu người
Ngoài chuyện dạy chữ cho con em đồng bào, thầy Phạm Thế Tư còn kiêm thêm cả nghề thầy thuốc. Lý do là bởi từ bản Mùa Xuân muốn đi xe máy xuống trung tâm xã mất nhiều thời gian, nếu gặp mưa thì càng khó di chuyển trên cung đường lầy lội, cheo leo, hiểm trở... nên công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân trong bản chưa được đáp ứng. Nhiều trường hợp ốm nặng phải dùng cáng khiêng đi bộ mất một ngày mới tới trạm y tế xã, đến nơi thì đã không kịp cứu hoặc bị di chứng nặng nề.
Từng được đào tạo kiến thức y tế học đường, trước thực tế đó, thầy Tư đã cần mẫn tìm các loài thảo dược từ trên núi về trồng để chữa bệnh miễn phí cho mọi người. Vườn thuốc nam ở trường và ở nhà riêng của thầy lúc nào cũng xanh um cây thuốc. Ba tháng hè, thầy còn tranh thủ tăng gia, dành dụm tiền để mua dăm loại thuốc tây thiết yếu để đến năm học mới mang lên trường, phòng khi đồng nghiệp, học sinh hoặc dân bản ốm đau thì cứu chữa. Dù đi xa hay gần, dù bệnh nặng hay nhẹ thì người bệnh cũng được hưởng sự chăm sóc, thăm khám miễn phí từ thầy.
Cùng với việc chữa bệnh, thầy luôn giải thích cho bà con hiểu và biết cách ăn uống hợp vệ sinh, nhằm phòng tránh các bệnh thường gặp. Thầy Tư tâm sự: "Hồi mới chữa bệnh, tôi cũng lo lắng vì phong tục tập quán mỗi dân tộc mỗi khác. Chữa khỏi được cho người nào là vui và tích lũy thêm kinh nghiệm. Nhưng cũng có những lúc gặp người bệnh nguy kịch, mình phải trao đổi để người thân của bệnh nhân hiểu rõ, có vậy bà con mới thông cảm cho mình".
Suốt mấy chục năm đi dạy tại các bản vùng sâu, chính thầy Tư không nhớ là mình đã chữa khỏi bệnh cho bao nhiêu người, nhưng lại thuộc hàng trăm con đường mòn, lối tắt băng ngang rừng núi để đến các điểm bản. Thầy bảo phải nhớ để mỗi khi có người bệnh cần cứu chữa, thì phải tìm đường ngắn nhất, nhanh nhất để đến nơi, chứ chỉ chậm vài phút là người bệnh sẽ khó cứu. Nhiều lúc đang dạy thì có người gọi điện, thầy lại nhờ đồng nghiệp đứng lớp giúp rồi bươn bả mang túi thuốc đi đến nhá nhem với về, người phờ phạc vì mất sức. “Mệt nhưng phải cố thôi. Vì bà con nghèo quá, sơn lam chướng khí thế này, sức người dễ kiệt. Ngoài việc điều kiện về y tế, thuốc men hạn chế, nhiều người dân vẫn còn tin vào các hủ tục như cúng ma, trừ tà, nên nhiều khi bệnh nhẹ cũng biến chứng thành nặng...”, thầy Tư chia sẻ.
Anh Thao Lâu Pó, người xem thầy Tư như ân nhân, kể: "Hai bố con tôi mang ơn thầy giáo Tư nhiều lắm. Không có thầy, hai bố con tôi giờ đã bị mù. Nhờ bài thuốc xông mắt bằng lá rừng của thầy mà giờ tôi nhìn rõ tất cả mọi thứ, không bị đau rát và đỏ rực như trước nữa. Nhờ vậy, con trai tôi lại tiếp tục đi học và không bị bạn bè xa lánh. Khỏi bệnh, tôi mang con lợn bé xuống tạ ơn thầy, thầy không lấy mà chỉ ra điều kiện phải cho con học hành đến nơi đến chốn".
Một trong những điều làm thầy Tư trăn trở và ám ảnh, lo lắng nhất là “vấn nạn” tự tử bằng lá ngón của đồng bào Mông. Đến giờ, “người thầy thuốc bất đắc dĩ” này cũng không thể nhớ hết được mình đã gặp phải bao nhiêu ca “cưỡi lá về trời”. Chị Thao Thị Mai, ở bản Xía Nọi, một bệnh nhân của thầy Tư thẹn thùng kể: "Lúc đó, tôi tưởng mình sắp chết, thầy Tư chạy đến pha một loại nước đặc sền sệt rồi lấy thìa móc họng tôi ra dốc nước vào cổ họng tôi, một lúc sau, tôi nôn hết lá ngón ra ngoài. Sau đó, thầy cho tôi uống nước chanh đường để rửa dạ dày. Thầy còn dặn chồng tôi phải nấu cháo đỗ cho tôi ăn để hồi sức. Tôi đã thoát chết nhờ có thầy Tư, tôi cảm ơn thầy rất nhiều và sẽ không bao giờ dại dột ăn lá ngón nữa".
Ngoài chị Mai, còn có chị Sung Thị Dua ở bản Mùa Xuân cũng đã từng được thầy Tư cứu thoát chết trong gang tấc.
Cứ thế, câu chuyện về người thầy giáo, thầy thuốc Phạm Thế Tư đã dần làm ấm lòng khách thượng sơn. Cái sương giá, cái gió núi ở nơi lưng chừng núi, lưng chừng mây này đã không còn làm chúng tôi tê tái. Một đời miệt mài gieo chữ, cứu người nơi thăm thẳm Mùa Xuân của thầy đã cho chúng tôi một bài học lớn về đức hy sinh, tinh thần tận tụy với nghề, với người, dẫu bản thân mình chưa lấy gì dư dả. Dẫu còn quá nhiều cam khó, thầy cùng với những đồng nghiệp của mình ngày qua ngày miệt mài, cần mẫn. Giờ, các thầy các cô đã thực sự trở thành những người con của bản. Để từ đó, câu chuyện về những người đi “gieo chữ giữa mây xanh” cứ nối dài ra mãi…