Cựu Thẩm phán Nguyễn Đức Sáu: “Ngày xưa may mắn được làm lính đặc công…”
Đời sống - Ngày đăng : 14:23, 29/04/2017
Năm 2016, ông được tổ chức tín nhiệm giới thiệu tham gia ứng cử và được bà con cử tri tin tưởng bầu làm Đại biểu Quốc hội khóa XIV. Dù ở cương vị nào, ông cũng “cháy” hết mình vì công việc. Phẩm chất của người lính đặc công năm nào đã thấm vào trong ông...
Từ người lính đặc công…
Ngày 17/4/1972, người thanh niên Nguyễn Đức Sáu được vinh dự gia nhập vào Binh chủng Đặc công. Đây là một trong những lực lượng tinh nhuệ của bộ đội ta gây cho kẻ thù nhiều phen khiếp vía.
Ông Sáu nhớ lại, những ngày tháng thao trường gian khổ, khắc nghiệt đã tôi luyện cho người lính đặc công ý chí sắt đá. Với phương châm “thao trường đổ mồ hôi, chiến trường ít đổ máu”, “kỷ luật là sức mạnh của quân đội”, ông và những đồng đội của mình đã vượt qua bao khó khăn để hoàn thành xuất sắc khóa huấn luyện. Tất cả các kỹ chiến thuật trong huấn luyện, người lính phải tinh thông, sử dụng và kết hợp nhuần nhuyễn trong chiến đấu.
Sau những tháng huấn luyện gian khổ, tháng 12/1972, đơn vị ông được lệnh vào Nam tham gia chiến đấu. Bốn tháng “trèo đèo lội suối”, đơn vị ông đã vào đến chiến trường Đông Nam Bộ. Kể từ tháng 4/1973, đơn vị ông đã đi qua hầu hết các chiến trường ác liệt của miền Đông, miền Tây Nam Bộ, tham gia nhiều trận đánh lớn như trận đánh đồn Trà Cú (Đồng Tháp Mười), trận Kiến Tường...
Ông Sáu kể, nhiệm vụ của người lính đặc công chừng như đơn giản nhưng lại hết sức nguy hiểm, là mục tiêu tiêu diệt hàng đầu của địch. Hàng ngày, hàng giờ cận kề với cái chết, sẵn sàng ngâm mình dưới nước cả ngày trời, chân trần, người không mặc quần áo lội qua những bãi mìn, pháo, dây kẽm gai giăng ngang dọc của kẻ thù và nhiều hiểm họa thiên nhiên để thu thập thông tin thật chính xác theo nguyên tắc “mắt thấy, tai nghe, tay sờ”. Rồi những lần ông cùng đồng đội luồn sâu, ém sát, bất ngờ đánh địch từ trong đánh ra theo kiểu “hoa nở trong lòng địch”, làm kẻ thù nhiều phen khiếp vía.
Khi Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mở màn bằng những trận đánh vào Xuân Lộc, đơn vị đặc công của ông được cấp trên giao đánh đài ra đa Phú Lâm. Đây là đơn vị truyền tin số một của quân đội Sài Gòn, vị trí chiến lược còn quan trọng hơn cả Sở chỉ huy địch nên được canh phòng nghiêm ngặt. Nhưng bằng cách đánh tài tình của lính đặc công, đơn vị ông chỉ trong một đêm 28/4/1975 đã làm chủ hoàn toàn khu vực này.
Cựu Thẩm phán Nguyễn Đức Sáu, nguyên Chánh tòa Hình sự TAND TP.HCM
Cuối năm 1976, đơn vị ông được điều động lên Dầu Tiếng (Tây Ninh) để xây dựng đập nước, phục vụ cho công cuộc tái thiết đất nước. Đến năm 1977, ông chính thức chuyển về Tòa án TP. HCM công tác, đến ngày 1/10/2014, nghỉ hưu theo chế độ. Hơn 36 năm tham gia xét xử, Thẩm phán Nguyễn Đức Sáu đã để lại nhiều dấu ấn trong những phiên tòa mà ông “cầm cân nảy mực” với vai trò chủ tọa phiên tòa.
…Đến Thẩm phán chuyên trị án hình sự
Sau khi chuyển ngành, với nỗ lực không ngừng nghỉ của bản thân, ông Sáu trở thành một Thẩm phán có năng lực, được đồng nghiệp và người dân tin yêu, mến phục. Những năm đầu thập niên 1990, cái tên “Nguyễn Đức Sáu” thường xuyên xuất hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng là Thẩm phán “chuyên” xét xử những vụ án lớn về kinh tế và trật tự trị an như “Nước hoa Thanh Hương”, “Lâm Cẩu”, “Trần Xuân Hoa”... Nhưng đỉnh cao phải kể là tài điều khiển của anh trong phiên tòa xét xử vụ án Minh Phụng - EpCo. Một phiên tòa có thời gian xét xử dài nhất trong lịch sử tố tụng thời bấy giờ - 86 ngày (mãi đến năm 2003, phiên tòa xét xử vụ án Năm Cam và đồng phạm mới phá được "kỷ lục" này).
Những ngày đầu năm 2005, ông chủ tọa phiên tòa xét xử vụ án mua bán trái phép chất ma túy do Nguyễn Văn Hải (Hải Luận) cầm đầu cùng đồng bọn thực hiện mua bán 2.354 bánh heroin - số lượng ma túy lớn nhất từ trước đến nay mà các cơ quan bảo vệ pháp luật phát hiện và đưa ra xét xử. Vụ án này là sự “hội ngộ” của những ông trùm khét tiếng trong giới mua bán ma túy: Hải Luận, Hạnh Cầm, Lệ Mập, Dũng Lừng, Nguyễn Đình Hoành - kẻ gieo rắc kinh hoàng cái chết trắng cho đồng loại. Đối diện với chúng, ông điều khiển rất bình tĩnh, tự tin và điềm đạm. Bằng một phong thái đĩnh đạc, ông đã “buộc” các ông trùm phải cúi đầu nhận hết mọi tội lỗi, tâm phục khẩu phục. Sau phiên tòa này, ông lại có một “danh hiệu” mới là chủ tọa một phiên tòa có nhiều án tử hình nhất từ trước đến nay: 17 án tử hình.
Hơn 36 năm ngồi ghế “quan tòa”, ông là một trong những Thẩm phán tuyên án tử hình nhiều nhất Việt Nam. Bởi những vụ án hình sự quy mô lớn, nhiều bị cáo mà các bị cáo bị truy tố có mức hình phạt cao nhất hầu như ông là người đảm nhận vai trò chủ tọa.
Không chỉ có trừng trị tội phạm, ông Sáu còn là một trong những Thẩm phán đầu tiên “dám” tuyên bố một bị cáo không phạm tội vào năm 1996. Đó là trường hợp của Phạm Việt Nam Hòa Bình - người được minh oan sau 17 tháng tù giam vì cứu người bị tai nạn giao thông. Đây là vụ án khiến ông nhớ mãi vì nó điển hình cho chuyện “làm ơn mắc oán” khi bị cáo vô tư cứu người bị nạn nhưng lại bị níu áo vào vòng tù tội. Bình là lái xe lam tải, chuyên chở rau từ ngoại thành vào các chợ trung tâm bỏ mối. 11 giờ trưa một ngày tháng 11/1994, Bình đi ngang hương lộ 11 (quận Tân Bình) thì thấy có người bị tai nạn giao thông nằm trên đường. Anh quay xe lại đưa nạn nhân vào bệnh viện, hoàn tất các thủ tục rồi đi giao rau tiếp.
Mấy ngày sau, Bình bị bắt vì lời khai của hai người: Một người thu hoạch hoa màu trên cánh đồng rau ven đường, một người là người cùng lưu thông trên đường khi ấy. Họ nói chính mắt họ trông thấy xe lam của Bình tông xe nạn nhân, gây gãy kín xương đùi và vỡ xương bánh chè người đi xe máy.
Đọc các biên bản khám nghiệm, ông Sáu đã hoài nghi về việc buộc tội Bình. Trong khi Bình một mực kêu oan thì phía VKS cương quyết bảo lưu quan điểm truy tố. Ông quyết định trực tiếp khảo sát và nhận thấy rằng vụ tai nạn là cú đâm đụng trực diện, đầu chiếc xe máy bể nát, trong khi xe lam lại không hề hấn. Xe máy đã bị tác động từ phía bên phải chứ không phải bên trái (là phía xe của Bình). Hơn nữa, nếu để hai phương tiện di chuyển áp sát ngược chiều nhau thì những vết trầy xước của xe máy không đụng được vào thành của xe lam. VKS cho rằng sau khi gây tai nạn, Bình đã đưa xe đi sửa nhưng thực tế thì Bình liên tục chạy giao hàng, không có thời gian nghỉ sửa xe…
Bấy nhiêu đó đã đủ để Phạm Việt Nam Hòa Bình được tuyên không phạm tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông. Bình được tự do, về nhà làm mướn mưu sinh, tiếp tục làm người tử tế và sẵn sàng cứu giúp người bị tai nạn khác khi họ cần đến mình.
Nhưng một trong những vụ án đọng lại nhiều nhất trong lòng của cuộc đời “cầm cân nảy mực” của cựu Thẩm phán Nguyễn Đức Sáu là vụ án cháy tàu Ninh Cơ. Gần 30 năm trước, tàu Ninh Cơ - loại tàu chở hàng đông lạnh, tải trọng 1.606 tấn - bất ngờ phát cháy khi đang neo đậu tại cảng thực vật Nhà Bè để sửa máy. Vụ cháy làm ba người bị thiệt mạng và một người khác bị bỏng nặng. Sau đó, điện trưởng, kỹ sư máy, thủy thủ bị truy tố về hai tội vi phạm các quy định về phòng cháy chữa cháy gây hậu quả nghiêm trọng và thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng. Riêng máy trưởng và thuyền trưởng bị truy tố tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng.
Thụ lý xét xử vụ này, khi đọc biên bản khám nghiệm hiện trường, ông Sáu giật mình bởi có một chi tiết không ổn: “Lưới thép chảy thành những giọt sáng bóng”. Về mặt khoa học, thép chỉ nóng chảy ở nhiệt độ từ 1.600oC trở lên. Trong khi đó, kết quả giám định xác định vụ cháy nổ do hỗn hợp khí hơi dầu gây ra..., nhiệt độ của vụ cháy khoảng 8000C. Ngoài ra, vụ án còn có thông tin về việc thành viên tàu buôn bán hóa chất gây nên cháy. Hồ sơ và lời khai tại tòa của một bị cáo cũng thể hiện vấn đề này.
Với kinh nghiệm của người lính đặc công, ông đánh giá: Không thể là cháy nổ hóa chất, bởi nếu hóa chất để một đống trong hầm tàu thì khi cháy thành tàu sẽ phải sùi biến dạng.
Kết thúc hai ngày xét xử, ông đã mời đoàn công tác có mặt tại ụ sửa chữa cảng Ba Son để kiểm chứng lại những đánh giá khi nghiên cứu hồ sơ và nghe tranh tụng tại tòa. Tàu khi đó đã đưa vào ụ sửa chữa và rút nước trong ụ tàu ra, đoàn đã vào kiểm tra từng chi tiết. Ông đã chỉ ra rằng, sơn thành tàu có vết răn đều hình bản đồ, hoàn toàn không có hiện tượng sùi biến dạng. Hơn nữa, khi rã máy tàu (để sửa chữa), hơi nóng và hơi dầu bốc lên thành một lượng đậm đặc mà không thoát ra ngoài được. Hơi dầu gặp nhiệt độ trên 200oC của bóng đèn 500W nên bốc cháy, tạo nhiệt độ tăng đột biến thì sẽ gây ra nổ. Đây mới chính là nguyên nhân gây ra vụ cháy nổ. Việc gắn thêm bóng đèn 500W trong hầm máy là do điện trưởng tự làm, thậm chí thuyền phó trực ban cũng không được báo cáo. Khi tàu neo đậu, phải căn cứ vào điều lệ, chức trách thuyền viên trên tàu biển Việt Nam. Theo đó, thuyền trưởng và máy trưởng không phải trực ca, trừ những tàu làm nhiệm vụ, trực bến, phục vụ bến cảng, cứu hộ… với tính chất công việc không kéo dài quá 12 tiếng. Vụ án này, trước khi sửa tàu, thuyền trưởng và máy trưởng đã họp phổ biến kế hoạch và phân công nhiệm vụ nên việc họ vắng mặt trên tàu khi xảy ra cháy không trái quy định…
Án tuyên Điện trưởng, kỹ sư máy, thủy thủ lãnh án về hai tội danh bị truy tố. Máy trưởng và thuyền trưởng do vô can nên được tuyên không phạm tội.
Tuyên án xong, ông Sáu tổ chức họp báo, chính thức trả lời những nghi ngờ của dư luận. Bản án này sau đó đã được cấp phúc thẩm hoàn toàn đồng tình.
Thẩm phán cần phải “có tâm, có tầm”
Ông Sáu kể, ngày xưa may mắn được làm lính đặc công nên những đức tính, phẩm chất ấy đã giúp cho ông rất nhiều trong công việc xét xử. Càng phức tạp, càng khó khăn thì ông càng bình tĩnh, sáng suốt hơn, hạn chế được những sai lầm không đáng có. Ông bảo ngày xưa người lính vì cái chung, sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh mất mát để bảo vệ dân tộc. Còn khi làm công tác xét xử, phải đặt lợi ích chung toàn xã hội lên trên nên trong mọi trường hợp, tính khách quan, vô tư phải được đặt lên hàng đầu, chứ không phải bằng ý chí chủ quan. Muốn làm được điều này, không thể nói suông mà trước mỗi hồ sơ vụ án phải nghiền ngẫm thật tỉ mỉ, chi tiết, vạch ra nhiều kế hoạch và biện pháp thực hiện.
Đã không ít lần, trước những chứng cứ tài liệu tưởng chừng như “vô dụng” nhưng bằng lương tâm và trách nhiệm của người Thẩm phán và cả bằng kinh nghiệm của người lính đặc công, ông nghiền ngẫm, nghiên cứu rất sâu và giải quyết thành công nhiều vụ án, góp phần đưa sự việc về với bản chất thật của nó. Có không ít lần, trước một tài liệu còn mơ hồ hay có điều nghi vấn, ông đều đích thân đến nơi xảy ra hiện trường, gặp gỡ nhân chứng, thậm chí tự mình “thực nghiệm điều tra” chỉ với mong muốn duy nhất là giải quyết chính xác vụ án.
Hàng ngày, hàng giờ tiếp xúc với những đối tượng phức tạp của xã hội, ông luôn tỉnh táo hóa giải mọi thủ đoạn tinh vi của chúng trong việc tiếp cận, mua chuộc hòng làm lệch “cán cân công lý”. Ông gọi đây là “mìn trong thời bình”. Ông nói, trước những “viên đạn bọc đường”, cần luôn động viên, bồi dưỡng, giáo dục phẩm chất cho đồng nghiệp, nhất là những người trẻ tuổi có biện pháp “phòng tránh từ xa”. Ngày xưa, nếu không tránh được bom mìn của giặc thì cái giá phải trả là sinh mạng, còn ngày nay, nếu không có biện pháp phòng tránh hữu hiệu các loại “mìn trong thời bình” thì cái giá phải trả cũng không thấp hơn.
Chia sẻ công việc hiện nay, ông Sáu rất kiệm lời. Ông tâm sự: Kinh nghiệm của hơn 36 năm làm Tòa án đã giúp ích rất nhiều trong công việc của Hội Luật gia TP. HCM cũng như vai trò thành viên của Ủy ban Tư pháp Quốc hội. Nhờ có những kiến thức thực tiễn thường xuyên va chạm từ xét xử, cộng với vốn kiến thức tích lũy nhất định góp phần không nhỏ cho ông khi tham gia góp ý các dự án luật mới, sửa đổi theo chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội. Ông Sáu đùa: “Nghỉ hưu nhưng thời gian và thời lượng làm việc cũng như cũ”.
Với kinh nghiệm 36 năm ngồi ghế “quan tòa”, cựu Thẩm phán Nguyễn Đức Sáu, nguyên Chánh tòa Hình sự TAND TP.HCM, từng tuyên nhiều bị cáo không phạm tội. Đã không ít lần ông phải thân chinh đến tận hiện trường xảy ra vụ án để nghiên cứu, thậm chí phải tự mình “thực nghiệm điều tra”. Nhờ vậy, bản án tuyên vô tội của HĐXX mà ông làm chủ tọa có sức thuyết phục cao, vì “thấu tình đạt lý”.
Theo cựu Thẩm phán Nguyễn Đức Sáu, có những vụ án nếu chỉ căn cứ vào hồ sơ vụ án để xét xử thì người thẩm phán khó có thể đưa ra được phán quyết đúng đắn nhất trong tình huống phức tạp. Khi xét xử, thẩm phán trước hết là con người nhìn vào một con người, soi rọi mọi ngóc ngách của vụ án để xem có gì oan khuất đằng sau đó. Điều này đòi hỏi Thẩm phán phải “có tâm, có tầm”. Nói cách khác là phải có bản lĩnh, kiến thức vững vàng, chịu trách nhiệm trước quyết định của mình. Khi đã tin chắc, Thẩm phán mới đưa ra phán quyết. Khi đó người Thẩm phán mới có thể thanh thản với lương tâm của mình. |