Phong trào thi đua

Kỷ niệm 79 năm Ngày truyền thống TAND (13/9/1945-13/9/2024): Chuyện về những nữ Chánh án nặng lòng với “miền đất khó”

Thu Trang 13/09/2024 - 10:02

Trực tiếp lắng nghe câu chuyện về những nữ Chánh án hết lòng với đồng bào, mới thấy được sự hy sinh thầm lặng của lớp lớp cán bộ nữ trong hệ thống TAND. Những cán bộ luôn trăn trở, dành hết tâm lực, trí tuệ của mình vì sự nghiệp bảo vệ công lý được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.

“Thẩm phán là nghề nguy hiểm, cần cái đầu lạnh và trái tim nóng”

Nhiều năm qua, công chức nữ trong hệ thống Tòa án ở bất kỳ vị trí nào đều phát huy được truyền thống tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam, xứng đáng là những người phụ nữ “giỏi việc nước, đảm việc nhà”. Đặc biệt phải kể đến các nữ cán bộ Tòa án công tác ở những miền đất khó như vùng sâu, vùng xa hay miền núi.

Công tác tại huyện vùng cao của tỉnh Cao Bằng, chị Hoàng Thị Thu Lịch, Chánh án TAND huyện Nguyên Bình luôn trăn trở với nghề, bởi theo chị: “Thẩm phán là nghề nguy hiểm trong các nghề nguy hiểm, nhất là với nữ Thẩm phán, dù hiện nay bình đẳng giới đã có nhiều tiến bộ, nhưng trong tư duy không ít người vẫn còn định kiến với phụ nữ.

Dù vậy, khi đã chọn con đường “bảo vệ công lý” thì có nguy hiểm tới đâu, phụ nữ hay nam giới cũng vậy, đều cần phải có bản lĩnh, trí tuệ và đặc biệt là “một cái đầu lạnh và một trái tim nóng”. Vì trọng trách của mỗi Thẩm phán là đưa ra những phán quyết công tâm, nghiêm minh, thấu tình đạt lý, đúng pháp luật”.

anh-1-nu-tham-phan.jpg
Thẩm phán Hoàng Thị Thu Lịch, Chánh án TAND huyện Nguyên Bình trong một phiên tòa.

Cũng là nữ cán bộ công tác trên địa bàn tỉnh Cao Bằng, Thẩm phán Lương Thị Hợp, Chánh án TAND TP Cao Bằng lại tìm sự cảm thông, chia sẻ ở chính những người đồng nghiệp và gia đình để cân bằng lại sau những phán quyết “cân não”.

Theo chị, Thẩm phán trước tiên phải có tinh thần dũng cảm bảo vệ công lý, ngoài ra cũng cần quyết đoán và tự tin. Vì đã là Thẩm phán thì phải chấp nhận đương đầu với khó khăn, vất vả và đương nhiên là cả sự hiểm nguy.

Để vượt qua, bản thân người Thẩm phán phải nắm vững các quy định pháp luật, đưa ra những bản án, quyết định công tâm, khách quan. Quan trọng nhất, Thẩm phán phải tự tin về nghiệp vụ, xét xử thấu tình, đạt lý để cho đương sự, bị cáo, những người liên quan phải thực sự tâm phục khẩu phục.

anh-2-nu-tham-phan.jpg
Thẩm phán Nguyễn Thị Lan Phương, Chánh án TAND huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình cùng đoàn công tác đi thẩm định trong vụ tranh chấp quyền sử dụng đất.

Nói về những khó khăn, vất vả của lãnh đạo nữ nói chung và các Thẩm phán, cán bộ nữ trong hệ thống TAND nói riêng, chị Nguyễn Thị Lan Phương, Chánh án TAND huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình người vừa làm cha, vừa làm mẹ lại phải đảm đương công việc của cơ quan tâm sự: “Là một lãnh đạo nữ, với vai trò là Chánh án TAND cấp huyện, để đảm bảo công việc của cơ quan cũng như gia đình, tôi đã phải hy sinh thời gian dành cho bản thân và đưa ra kế hoạch rất khoa học. Chồng tôi đã mất nên việc tôi vừa phải làm cha, vừa phải làm mẹ để dạy bảo các con nên người, chăm sóc các con mạnh khỏe khiến tôi chịu nhiều áp lực.

Bên cạnh đó, còn có công việc của cơ quan, nên tôi phải nỗ lực và hy sinh nhiều thứ mới cân bằng được cuộc sống và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ. Thực tế để “giỏi việc nước, đảm việc nhà”, hơn ai hết, người phụ nữ làm lãnh đạo phải biết hy sinh và biết giữ được sự cân bằng giữa công việc và gia đình”.

Cùng với đó, bản thân người Thẩm phán rất cần sự chia sẻ của đồng nghiệp, sự cảm thông của gia đình và xã hội về những lo ngại, nguy hiểm trong nghề. Và cần nhiều hơn những quy định về pháp luật để đảm bảo chế độ chính sách cho cán bộ Tòa án, đặc biệt là những quy định nhằm bảo vệ Thẩm phán, để họ luôn cảm thấy an tâm và vững tin đương đầu với khó khăn, thử thách, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, chị Nguyễn Thị Lan Phương nhấn mạnh.

anh-3-nu-tham-phan.jpg
Thẩm phán Lương Thị Hợp, Chánh án TAND TP Cao Bằng.

“Phải thực sự gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”

Ngoài áp lực xét xử, các Thẩm phán ở vùng cao còn gặp phải những khó khăn đặc thù. Chia sẻ với phóng viên, Thẩm phán Lương Thị Hợp, Chánh án TAND TP Cao Bằng cho biết, nhiều huyện miền núi, vùng sâu, vùng xa có địa bàn rất rộng, cơ sở vật chất và giao thông đi lại khó khăn.

Bên cạnh đó, trình độ và nhận thức pháp luật của người dân không đồng đều, trong khi đơn vị còn thiếu biên chế. Trong công tác xét xử, các vụ án hình sự có tính chất phức tạp với tội phạm ma túy chiếm tỷ lệ cao, mà trong số đó khoảng 90% những người phạm tội là đồng bào dân tộc thiểu số.

Chính vì vậy, “để làm việc ở một tỉnh miền núi với trình độ dân trí không đồng đều, giao thông đi lại khó khăn, nhân lực, cơ sở vật chất thiếu thốn... Trước tiên phải có tinh thần trách nhiệm và sự nhiệt tình. Hơn hết là phải “gần dân, hiểu dân, giúp dân và học dân”.

“Chúng tôi phải tự tìm hiểu tiếng nói của người dân tộc bản địa để chia sẻ động viên họ trong quá trình tiến hành các hoạt động tố tụng. Thậm chí là tìm hiểu phong tục tập quán của họ để đưa ra những phán quyết công tâm, thấu tình đạt lý. Nhiều khi có những đương sự không có tiền để về nhà sau khi phiên tòa kết thúc, các Thẩm phán như chúng tôi sẵn sàng không nhận tiền bồi dưỡng phiên tòa, cho họ đủ tiền, kịp bắt chuyến xe về quê", chị Hợp cho biết thêm.

anh-4-nu-tham-phan.jpg
Thẩm phán Triệu Thị Vang, Chánh án TAND huyện Chợ Mới, trên đường đến nhà của đương sự ở cheo leo lưng đồi để làm công tác dân vận.

Có thể nói, nữ Thẩm phán đã khó khăn, vất vả, đặc biệt là nữ Chánh án thì sẽ càng áp lực hơn. Đối với Chánh án ở những miền đất khó như các tỉnh vùng cao, miền núi, ngoài công việc bình thường của gia đình và xã hội thì bản sắc văn hóa, dân tộc của đồng bào nơi đây cũng là vấn đề cần chú trọng.

Thẩm phán Triệu Thị Vang, Chánh án TAND huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn chia sẻ, khó khăn lớn nhất trong công tác xét xử chính là nhận thức pháp luật của bà con đồng bào dân tộc thiểu số. Như huyện Chợ Mới, bà con chủ yếu là đồng bào dân tộc Dao, nhận thức của họ về các vấn đề như trợ giúp pháp lý và hưởng thụ chính sách pháp luật rất hạn chế.

Theo chị, trong quá trình giải quyết các vụ án, bà con không hiểu về chính sách pháp luật nên thường có những yêu cầu trái pháp luật. Giống như việc đòi trả lại của hồi môn theo phong tục tập quán của họ thì mới đồng ý ly hôn… Hay như trong giải quyết vụ việc dân sự, làm sao để đi đến được kết quả thấu tình đạt lý, giải quyết được tranh chấp, bất đồng giữa hai đương sự là cả một quá trình.

Quá trình đó vận hành theo những cung bậc khác nhau, không tuân theo mô tuýp nào, vì nó chịu ảnh hưởng của bản sắc văn hóa, dân tộc, vùng miền. Những Thẩm phán lúc này phải hiểu biết về phong tục tập quán của người dân địa phương, thực sự gần dân và đưa dân vận vào công tác giải quyết án, giải thích cho họ hiểu và tuân theo pháp luật.

“Chúng tôi phải đi đến tận nhà của đương sự, ở cheo leo lưng đồi, thậm chí cùng lao động, sản xuất với người dân để tạo sự gần gũi rồi từ đó mới tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật cho bà con. Có nhiều trường hợp, Thẩm phán tuyên truyền cả nửa ngày nhưng đến lúc hỏi ý kiến của đương sự thì họ lại không nói được tiếng phổ thông. Lúc đó, các Thẩm phán phải học thêm tiếng của đồng bào sau đó mới tuyên truyền thì công việc mới được giải quyết”, Thẩm phán Vang chia sẻ thêm.

Thật khó để đong đếm hết được những khó khăn, vất vả, nhọc nhằn mà những nữ cán bộ Tòa án nói riêng và các cán bộ Tòa án nói chung phải vượt qua. Chỉ biết rằng, nếu không phải là những cán bộ thực sự “gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân” thì chắc chắn họ không thể hoàn thành tốt nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, để Tòa án xứng đáng là biểu tượng của “công lý, lẽ phải và niềm tin”.

Thu Trang