Hoàn thiện khung pháp lý để nâng cao chất lượng dân số

Đời sống - Ngày đăng : 08:48, 29/07/2015

Sau 12 năm thực hiện, Pháp lệnh Dân số (PLDS) đã bộc lộ một số hạn chế cần sớm khắc phục. Luật Dân số sẽ được Quốc hội cho ý kiến trong gian tới được kỳ vọng sẽ góp phần giải quyết những vướng mắc, bất cập trong công tác dân số.

Chuyển biến tích cực

Theo Phó tổng cục trưởng phụ trách Tổng cục Dân số- Kế hoạch hóa gia đình (DS – KHHGĐ) Nguyễn Văn Tân: Qua 12 năm triển khai thực hiện PLDS năm 2003 và Pháp lệnh sửa đổi Điều 10 PLDS năm 2008, công tác DS - KHHGĐ đã có những chuyển biến tích cực, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nhận thức của các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân về công tác DS - KHHGĐ có nhiều thay đổi.

Công tác DS - KHHGĐ được coi là bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Nhận thức của người dân về hôn nhân và sinh đẻ đã có sự chuyển biến; ngày càng có nhiều người kết hôn, sinh con phù hợp với lứa tuổi, sức khỏe và điều kiện kinh tế. Quy mô dân số cả nước tăng trung bình khoảng 1,2 triệu người mỗi năm trong thời kỳ 1989 - 1999, đến thời kỳ 1999 - 2009 còn 945.000 người/năm. Đặc biệt, từ 1.4.2010 đến 1.4.2011 số dân cả nước tăng thêm 936.000 người/năm.

Bên cạnh đó, số liệu của các cuộc điều tra dân số qua các năm gần đây cho thấy tổng tỷ suất sinh có xu hướng giảm từ 2,23 con/phụ nữ năm 2004 xuống còn 2,09 con/phụ nữ (năm 2014). Việc giảm tốc độ tăng dân số cũng đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần tăng GDP bình quân đầu người, đưa Việt Nam vào nhóm nước có thu nhập trung bình. Giảm sinh đã tạo điều kiện nâng cao chất lượng giáo dục thông qua việc giảm số giữa số học sinh. Quy mô dân số được kiểm soát giúp bảo đảm an ninh lương thực, xóa đói giảm nghèo, bảo vệ tài nguyên, môi trường được tốt hơn.

Hoàn thiện khung pháp lý để nâng cao chất lượng dân số

Việt Nam có cơ cấu dân số vàng nhưng chất lượng dân số còn hạn chế

Về chất lượng dân số, tỷ suất trẻ em chết dưới 1 tuổi  và tỷ số tử vong mẹ ngày càng giảm. Nước ta có thể đạt Mục tiêu Thiên niên kỷ MDG 4, 5 vào năm 2015. Tuổi thọ bình quân của nước ta đạt khá cao từ 68,5 tuổi năm 2000, tăng lên 72 tuổi năm 2005 và 73,2 tuổi năm 2014, vượt mục tiêu Chiến lược đề ra là 71 tuổi và đến năm 2007, nước ta chính thức bước vào thời kỳ cơ cấu dân số vàng.

Mỗi năm, dân số tăng gần 1 triệu người

Nhờ thực hiện tốt Pháp lệnh Dân số, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tuy nhiên, thực tế vẫn còn nhiều khó khăn và thách thức.

Thách thức lớn nhất là quy mô dân số tiếp tục tăng lên dù tốc độ gia tăng dân số đã được khống chế và đến giữa thế kỷ XXI, quy mô dân số nước ta mới đạt cực đại. Mỗi năm, dân số nước ta tăng gần 1 triệu người. Thời gian tới, cần duy trì mức sinh thấp hợp lý như mục tiêu tổng quát của Chiến lược DS/SKSS giai đoạn 2011 - 2020 trong khi mức sinh vẫn còn khác nhau giữa các vùng. Bên cạnh đó, mất cân bằng giới tính khi sinh từ mức bình thường đã tăng lên mức cao và hệ lụy gây ra bất ổn định xã hội, đòi hỏi phải sớm cân bằng tỷ số giới tính khi sinh theo mức tự nhiên.

Quá trình chuyển đổi nhân khẩu học đặt ra những cơ hội, thách thức, đòi hỏi sự phát triển phải chuyển hướng nền kinh tế cho thích ứng với già hóa dân số và khai thác những lợi thế của cơ cấu dân số vàng. Tuổi thọ người dân tăng lên là một thành tựu nhưng làm thế nào để chăm sóc người cao tuổi là thách thức. Một thách thức nữa đó là chúng ta đang ở thời kỳ cơ cấu dân số vàng nhưng chất lượng dân số còn hạn chế so với các nước trong khu vực như chất lượng dân số thấp về cả thể chất, trí tuệ và tinh thần; việc tổ chức thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng dân số chưa hiệu quả. Ngoài ra, chúng ta đang đối mặt với những khó khăn, thách thức khác về di cư và đô thị hóa, quản lý dân cư và phân bố dân cư. Những thay đổi, khác biệt về kinh tế - xã hội của các vùng, miền tác động mạnh đến việc tổ chức thực hiện công tác dân số...

Hoàn thiện khung pháp lý

Ông Nguyễn Văn Tân cho rằng có cả những khó khăn, thách thức từ thực tiễn và từ chính sách pháp luật về dân số. Thực tế, những thay đổi khác biệt của các vấn đề kinh tế - xã hội tác động mạnh đến việc tổ chức thực hiện công tác dân số và việc xây dựng các quy định pháp luật về dân số. Việc tiếp cận các nguồn vốn viện trợ, vốn vay ưu đãi của quốc tế và các quốc gia trong lĩnh vực dân số bị cắt giảm. Sự phát triển nhanh chóng của về kinh tế - xã hội có tác động tích cực, tiêu cực đến mức sinh, mức chết, di cư, sự phát triển của con người và làm thay đổi nhanh chóng điều kiện sống, lối sống của người dân.

Về chính sách pháp luật về dân số, sau 12 năm thực hiện PLDS đã bộc lộ một số hạn chế cần sớm khắc phục. Pháp luật dân số chưa điều chỉnh hoặc chưa điều chỉnh đầy đủ những vấn đề mới nảy sinh. Nếu không được giải quyết kịp thời sẽ gây ra những hệ lụy cả về quy mô, cơ cấu, phân bố, chất lượng dân số, chẳng hạn sàng lọc trước sinh và sơ sinh; tốc độ già hóa dân số nhanh; khai thác lợi thế giai đoạn cơ cấu dân số vàng....

Thực hiện Nghị quyết của QH và quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Y tế đã xây dựng Dự thảo Luật Dân số để đáp ứng với việc giải quyết công tác dân số trong tình hình mới. Theo ông Nguyễn Văn Tân, Luật Dân số khi ban hành phải đáp ứng mục tiêu hoàn thiện khung pháp lý về dân số, giải quyết những vấn đề mới phát sinh, nổi cộm của công tác dân số hiện tại và đáp ứng yêu cầu công tác dân số trong thời gian tới, phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, chất lượng nguồn nhân lực trong thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Những vấn đề lớn về dân số trong hiện tại và tương lai cần được giải quyết trong Luật Dân số.n

Lan Hương