Vợ chồng “đại gia” Minh Khang vào tù vì lừa đảo
Bà Thu, Giám đốc Công ty TNHH Thương mại Minh Khang, và chồng là ông Khang, Trưởng ban Quản lý Dự án Khu đô thị Minh Khang, đã ký 305 hợp đồng góp vốn 325 lô đất, trong đó nhiều lô đất bán trùng hoặc không có thật, chiếm đoạt hơn hơn 57 tỷ đồng của nhiều khách hàng.
TAND tỉnh Nghệ An vừa mở phiên tòa sơ thẩm xét xử hai bị cáo Nguyễn Thị Thu (67 tuổi) - Giám đốc Công ty TNHH Thương mại Minh Khang (Công ty Minh Khang) - và Nguyễn Đình Khang (75 tuổi) - Trưởng ban Quản lý Dự án Khu đô thị Minh Khang - về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
Theo hồ sơ vụ án, Công ty Minh Khang gồm 2 thành viên góp vốn là bà Nguyễn Thị Thu và ông Nguyễn Đình Khang (chồng bà Thu).
Năm 2007, Công ty được phê duyệt thực hiện Dự án xây dựng tổ hợp khách sạn, siêu thị kinh doanh dược - thiết bị y tế và nhà ở tại xã Nghi Phú, TP. Vinh với tổng vốn đầu tư gần 800 tỷ đồng.
Theo quy hoạch ban đầu, dự án này có 74 lô đất các loại. Quá trình thực hiện, Dự án Minh Khang đã được điều chỉnh quy hoạch nhiều lần.
Từ năm 2011, Công ty Minh Khang cho các cá nhân, tổ chức ký kết các hợp đồng nguyên tắc góp vốn đối với các lô đất; đồng thời, dùng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất một số lô đất làm tài sản thế chấp vay vốn trả nợ; chuyển nhượng một số lô đất không có thật trong dự án cho một số người để chiếm đoạt tài sản. Công ty đã ký được 305 hợp đồng nguyên tắc góp vốn, 325 lô đất cho 250 cá nhân, với số tiền hơn 543 nghìn tỷ đồng.
Ngoài ra, vợ chồng Giám đốc Nguyễn Thị Thu và Nguyễn Đình Khang còn dùng các lô đất không có thật, các lô đất đã bán cho người khác, hay các lô đất đã thế chấp cho ngân hàng để tiếp tục làm tài sản thế chấp vay vốn của cá nhân, đơn vị khác dưới dạng hợp đồng góp vốn...
Cơ quan chức năng làm rõ, với các hành vi này, bị cáo Nguyễn Đình Khang và Nguyễn Thị Thu đã chiếm đoạt hơn 57 tỷ đồng từ các khách hàng.
Sau quá trình xét hỏi, tranh tụng công khai tại phiên tòa, HĐXX nhận định VKSND tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo Khang và Thu tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" và "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản" là có căn cứ.
Đại diện luật sư của bị cáo bào chữa tại phiên tòa cho rằng, hành vi của hai bị cáo không cấu thành tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" vì tại thời điểm ký hợp đồng góp vốn, các bên thể hiện rõ ý chí góp vốn để được nhận một phần lợi nhuận hoặc được mua lô đất dự án với giá gốc khi dự án hoàn thành.
Tuy nhiên, HĐXX cho rằng, hai bị cáo đã đưa ra nhiều thông tin gian dối để các cá nhân, tổ chức ký các hợp đồng chuyển nhượng những lô đất không có thật. Sau đó, hai bị cáo nhận tiền để sử dụng cho mục đích cá nhân. Do đó, việc truy tố các bị cáo tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" là có căn cứ.
Trên cơ sở nội dung vụ án, HĐXX nhận định, mặc dù bà Thu là Giám đốc, đại diện theo pháp luật, nhưng mọi hoạt động đều do ông Khang điều hành, chỉ đạo. Trong vụ án này, bị cáo Khang phải chịu trách nhiệm hình sự chính, còn bị cáo Thu phạm tội với vai trò đồng phạm giúp sức.
Việc các bị cáo phạm tội 2 lần trở lên là tình tiết tăng nặng. Tuy nhiên, cũng cần xem xét một số tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.
Xem xét toàn diện vụ án, HĐXX tuyên phạt bị cáo Nguyễn Đình Khang 20 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, 12 năm tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, hình phạt chung buộc bị cáo phải nhận là 30 năm tù.
Tuyên phạt bị cáo Nguyễn Thị Thu 12 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và 8 năm tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, tổng hình phạt chung là 20 năm tù.
Về phần dân sự, Tòa buộc hai bị cáo liên đới trách nhiệm phải bồi thường tiền gốc và tiền lãi cho các bị hại.