Rực rỡ sắc xuân của đồng bào người Lô Lô nơi địa đầu Tổ quốc
Đời sống - Ngày đăng : 07:30, 21/02/2015
Các cụ ông thì nhâm nhi chén rượu. Thanh niên, thiếu nữ thì đi qua các nhà để xin lộc bằng cách “lấy trộm” vài thanh củi, mấy ngọn rau hay vài cành ngô khô đem về nhà. Mọi người đổ ra các ngả đường và tập trung nhau lại để chờ gà gáy sáng đó cũng là lúc khắp cả bản rực rỡ sắc xuân.
Làng Lô Lô nhìn từ trên đỉnh núi đẹp như một bức tranh
Phong tục đón xuân độc đáo
Ông Sình Dỉ Pai, 70 tuổi, một vị cao niên trong làng kể lại: “Lô Lô Chải (làng Lô Lô) từ bao đời nay luôn gìn giữ những nét phong tục, tập quán độc đáo gắn với đời sống tinh thần và sản xuất nông nghiệp từ ngàn đời nay. Từ hôm 28 - 29 tháng Chạp, mọi nhà đều quét dọn nhà cửa sạch sẽ và đưa rác rưởi trong nhà ra các ngã ba, ngã tư đổ, với ý nghĩa tống khứ những rủi ro, uế tạp của năm cũ và chuẩn bị đón tài lộc năm mới”.
Thiếu nữ Lô Lô
Chiều 30 Tết, theo phong tục, người Lô Lô thường tổ chức bữa cơm sum họp của cả nhà. Tất cả các thành viên trong gia đình đều được gia chủ tổ chức cúng sức khỏe, gọi hồn (hồn sống) về với ông bà, cha mẹ, vợ con, anh em sum họp đầy đủ để đón mừng năm mới. Đàn ông, con trai cúng bằng gà mái, đàn bà, con gái cúng bằng gà trống”. Hôm đó là ngày “niêm phong” cho tất cả những gì thuộc về gia đình. Từ cái cuốc, cái xẻng, con dao, cái rựa, cái cày, cái bừa, cây cối quanh nhà, chuồng trại... đều được dán giấy quét màu vàng hay màu bạc để các vật này được “nghỉ Tết” và con người không được chạm đến hay di chuyển đi nơi khác.
Đêm đón giao thừa là đêm nhộn nhịp nhất trong năm, cả bản đều thức. Các cụ bà cùng các cháu bé bên bếp lửa hồng với nồi bánh chưng và kể chuyện cổ tích râm ran. Các cụ ông thì nhâm nhi chén rượu. Thanh niên, thiếu nữ thì đi qua các nhà để xin lộc bằng cách “lấy trộm” vài thanh củi, mấy ngọn rau hay vài cành ngô khô đem về nhà. Khắp nơi hương khói, trong nhà đèn sáng tỏ, ngoài đường thắp lên những ngọn đuốc sáng rực. Thanh niên và trẻ con đổ ra các ngả đường và tập trung ở các sân chơi để chờ gà gáy sáng.
Theo phong tục, người Lô Lô đón giao thừa bắt đầu từ tiếng gà gáy đầu tiên trong bản. Bất kể là gà nhà ai, miễn là ở trong làng có một con gà cất tiếng gáy đầu tiên là chủ gia đình gọi mọi người đón mừng năm mới. Chủ nhà thắp hương lên bàn thờ, quỳ lạy cúng khấn tổ tiên, mời các cụ trong dòng họ qua các đời về với con cháu ăn Tết. Trong gia đình cử người đi gánh nước, người thì cho lợn ăn, khua hết các con vật dậy, tiếng heo kêu, chó sủa, ngựa hí vang làm ầm ĩ, náo nhiệt cả làng. Tết của người Lô Lô cũng là cuộc gặp gỡ những người trong nhà. Theo tập quán, dù ai đi bất cứ đâu, làm bất cứ nghề gì, hàng năm mỗi khi Tết đến đều mong muốn trở về sum họp gia đình và tạ ơn tổ tiên. Người Lô Lô có câu: “Sống nhớ về tổ tiên, mồ mả chứ không phải sống vì món ăn”, cho nên, ngoài quan niệm vật chất còn có phần tâm linh, đó là mồ mả, bát hương thờ cúng ông bà, cha mẹ.
Truyền thuyết rồng thiêng
Đến nay các cụ cao niên trong làng vẫn thường kể cho con cháu về truyền thuyết rồng thiêng. nơi rồng thiêng xuất hiện được gọi là núi Rồng (chính là nơi có cột cờ Lũng Cú ngày nay) hai hồ nước hai bên chính là “Long nhãn rồng”, tức là mắt của rồng. Người làng Lô Lô được núi Rồng che trở, được hồ nước là mắt rồng cung cấp, từ vài ba hộ nay đã trở thành ngôi làng trù phú với gần 100 nóc nhà.
Ngược dòng lịch sử ngày xưa Thái úy Lý Thường Kiệt đã cho treo một lá cờ khi ông hội quân trấn ải biên thùy và cho chôn một hòn đá tảng để đánh dấu lãnh địa nước ta. Sau này, Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ cũng theo vị trí đó mà đặt trống báo cầm canh. Cứ mỗi canh, tiếng trống lại vang lên ba hồi đĩnh đạc, vang xa mấy dặm, như một sự khẳng định chủ quyền đất nước. Thời kỳ đó, tiếng trống còn là phương tiện thông tin nhanh nhất. Chính vì thế, Lũng Cú khi đọc chệch âm sang âm tiếng địa phương có nghĩa là Long Cổ, tức trống của vua.
Năm 1887, khi Thực dân Pháp và triều đình Mãn Thanh tiến hành phân giới cắm mốc đã có ý định cắt phần đất này cho phía Trung Quốc. Nhờ sự đấu tranh bảo vệ kiên cường của nhân dân nên mảnh đất biên cương được giữ vững mốc giới như ngày nay. Theo các vị cao niên trong làng kể lại: “Khi thực dân Pháp, cho quân lên chiếm đóng phía cực bắc đã chọn trí núi Lũng Cú ngay cạng núi Rồng để xây dựng đồn bốt. Từ đây chúng có thể quan sát, khống chế cả khu vực rộng lớn là toàn bộ các bản làng. Nhưng lạ thay mỗi lần chúng có ý định xây dựng trên ngọn Lũng Cú đều không thể thực hiện được nếu không mưa to, gió lớn thì cũng trời long, đá lở. Năm 1954, quân Pháp tháo chạy người Lô Lô lại được sống trong hòa bình, cùng nhau xây dựng quê hương nơi địa đầu Tổ quốc.
Trong thời kỳ chiến tranh biên giới 1979 - 1980, người dân làng Lô Lô, theo chỉ thị phải đi tản cư, bỏ lại ruộng vườn, nhà cửa sau bao thế hệ gây dựng để đi xuống vùng Yên Minh (Hà Giang) lánh nạn. Đồ đạc mang theo chỉ là những đồ dùng thiết yếu. Dù xa quê hương tới cả vài chục cây số, đêm đêm nghe tiếng pháo từ phía bên kia bắn sang mà người dân làng cảm thấy nao lòng. Chiến tranh kết thúc mọi người lại trở về quê cũ, khắc phục hậu quả, chiến tranh bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới. Nhưng có điều làm ai trong làng cũng cảm thấy rưng rưng khi những ngôi nhà thân yêu của họ đều không bị hề hấn gì cho dù đạn pháo của địch cày nát những thửa ruộng bậc thang.
Ngày nay về làng Lô Lô ta vẫn còn bắt gặp những nếp nhà cổ đã có hàng trăm năm tuổi với tường được làm bằng đất nện, ngói mái cong mang màu của thời gian. Và đây cũng chính là những nét truyền thống độc đáo của người dân Lô Lô ở Lũng Cú mà Trung tâm Văn hóa, thể thao và du lịch Hà Giang đang đưa vào việc bảo tồn phát triển khu làng văn hóa du lịch trong quần thể khu du lịch cột cờ quốc gia Lũng Cú.
Những ngày ở đây chúng tôi đã được ông Sình Dỉ Gai – Trưởng thôn Lô Lô kể lại câu chuyện nghe có phần huyễn hoặc: “Cách đây vài thập kỷ, địa phương đã cho xây dựng hệ thống thủy lợi để dẫn nước từ 2 hồ lớn về khu ruộng. Tuy nhiên, khi xây dựng xong hệ thống cũng là lúc mực nước ở 2 hồ xuống mức thấp kỷ lục, có nguy cơ cạn kiệt. Người dân cho rằng việc xây dựng đã vô tình động chạm vào hồ thiêng nên đã phá bỏ hệ thống này và cũng thật lạ là ngay sau đó 2 hồ nước lại trở lại mực nước như trước. Từ đó không ai có ý định động chạm đến vùng đất thiêng này nữa”.
Đúng vậy, từ trên đỉnh núi nhìn xuống hai hồ nước trong veo, xanh biếc như điểm cho núi rừng Lũng Cú thêm thơ mộng. Còn người dân thì lại vui mừng vì kinh nghiệm cho thấy năm đó sẽ được mùa, lúa ngô sẽ đầy nhà. Nhiều người đã thử đi tìm nước chảy vào hồ bắt nguồn từ đâu, nhưng cũng đành bó tay chịu thua. Họ chỉ nghe kể lại là phía góc hồ bên phải (mắt phải của rồng) có một hang động nhỏ, thông nhau với hồ bên trái. Vì vậy, mực nước hai hồ lúc nào cũng bằng nhau, hồ bên này cạn nước thi hồ bên kia cũng cạn và ngược lại hồ bên này đầy thi bên kia cũng đầy.
Một mùa xuân nữa lại về, du khách đến đây được tiết đãi món rượu ngô độc đáo của người Lô Lô càng uống, càng say và say với đất trời nơi địa đầu Tổ quốc. Ông Vàng Dỉ Chuối – Phó Chủ tịch HĐND xã Lũng Cú vui mừng cho biết: “Lô Lô là một trong những dân tộc ít người tại Việt Nam, từ nhiều đời nay vốn định cư và sinh sống trên Cao nguyên đá Đồng Văn. Mùa xuân đến người Lô Lô cố gắng hoàn thành những công việc cuối cùng của năm cũ, chuẩn bị đón một mùa xuân mới. Không quá ồn ào, khoa trương, những phong tục tập quán trong ngày Tết của người Lô Lô mộc mạc nhưng rất hấp dẫn và đầy sức sống”.