Nhận diện sớm các nguy cơ sạt lở, sụt lún đất
Từ cuối tháng 6/2023 đến nay, trên cả nước liên tiếp xảy ra hàng chục vụ sạt lở đất đá. Trong số đó, một số vụ gây thiệt hại nghiêm trọng như: Sự cố sạt lở đất tại đèo Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng; sạt lở đất đá, đường giao thông ở các tỉnh Lai Châu, Sơn La, Điện Biên, Hòa Bình, Đắk Nông, Yên Bái… ảnh hưởng rất lớn tới sản xuất và đời sống của người dân. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng nêu trên được xác định là do các yếu tố như: Mưa lớn, địa chất và các hoạt động nhân sinh gây ra.
Nhận diện nguy cơ sạt lở đất
Phần lớn các vụ sạt lở đất trong những năm qua đều nằm ở ven đường giao thông, nhưng vấn đề kè chống chưa được chú trọng. Thực tế này đã đến lúc cần phải thay đổi để giảm thiểu các vụ việc đau lòng.
Báo cáo của Tổng cục Khí tượng Thủy văn (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho thấy: Trong tháng 7 và những ngày đầu tháng 8/2023, tại khu vực Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ đã xảy ra 5 đợt mưa diện rộng. Riêng khu vực Tây Nguyên và Nam Bộ liên tục xảy ra mưa diện rộng gây mưa vừa, mưa to, có nơi mưa rất to.
Tổng lượng mưa phổ biến tại khu vực Bắc Bộ và Thanh Hóa, Nghệ An từ 100 đến 250 mm, một số nơi thuộc Bắc Bộ có lượng mưa lên tới hơn 300 mm. Tại khu vực Tây Nguyên và Nam Bộ, tổng lượng mưa từ 200 đến 400 mm, có nơi hơn 500 mm, đặc biệt tại Phước Long (Bình Phước) tổng lượng mưa lên đến 870 mm.
Do mưa lớn, đã xảy ra một số vụ thiên tai gây sạt lở, ngập lụt ở một số khu vực. Tại tỉnh Lâm Đồng đã ghi nhận 3 vụ, gồm: Sạt lở tại Hẻm 36, đường Hoàng Hoa Thám, phường 10, thành phố Đà Lạt; sạt lở tại đèo Bảo Lộc; sạt trượt, sụt lún đất tại xã Đông Thanh (huyện Lâm Hà). Từ đầu tháng 8 đến nay, tại khu vực miền núi phía Bắc tiếp tục ghi nhận các vụ sạt lở nghiêm trọng tại các tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Yên Bái...
Thực tế vụ sạt lở đất ở phường 10 (TP. Đà Lạt) lượng mưa tích lũy 12 giờ trước khi xảy ra sạt lở khoảng 50 mm, trước 24 giờ khoảng 100 mm. Trong khi đó, vụ sạt lở đất tại đèo Bảo Lộc, lượng mưa 12 giờ trước đó đạt 170 mm, 24 giờ trước đó 232 mm. Như vậy, dù lượng mưa không đáng kể những vẫn xảy ra sạt lở. Điều này cho thấy vấn đề sạt trượt phụ thuộc lớn vào đặc điểm địa hình, địa chất ở mỗi vị trí, khu vực.
Nguyên nhân tiếp theo là do yếu tố địa chất. Khu vực đồi núi cao, phân cắt mạnh về địa chất, có nhiều loại đất đá cổ bị đập vỡ nứt nẻ, tạo ra lớp vỏ phong hóa dài, nhiều lớp đất sét là điều kiện bất lợi có thể gây sạt lở đất, đá. Tiếp đến là hoạt động nhân sinh dẫn đến việc sạt lở, sụt lún do việc mở đường, san ủi để có mặt bằng nhà ở, trường học… sẽ phải thực hiện cắt ta-luy, tạo ra cắt mất chân sườn dốc là nguyên nhân kích hoạt thiên tai.
Thứ trưởng Tài nguyên và Môi trường Lê Công Thành cho biết: Những sườn núi, sườn đồi tự nhiên thì sự phong hóa đất đá xảy ra từ từ và đất đá cũng trượt lở một cách từ từ để tạo nên các sườn dốc tự nhiên và ổn định. Khi chúng ta cần không gian để phát triển, có các hoạt động thay đổi bề mặt như chuyển đất rừng thành đất để trồng cây hay san gạt đất để làm nhà, làm đường, xây dựng các hồ chứa nước, đập, thủy điện, khi có lượng mưa lớn thì nguy cơ sạt lở sẽ lớn hơn.
Do vậy, cách để chúng ta phát hiện và cảnh báo những điểm sạt lở này là có những dấu hiệu như: Vết nứt, cây cối trên những sườn đồi, sườn núi nghiêng theo một hướng, hay có những tiếng nổ trong lòng đất thể hiện vết nứt đang phát triển. Khi phát hiện những dấu hiệu này, người dân và các lực lượng ở địa phương cần theo dõi, nếu thấy nguy cơ lớn thì phải di dời. Ngoài ra, hiện các cơ quan chỉ đạo phòng, chống thiên tai, cứu nạn, cứu hộ tại các địa phương đều đã có những tài liệu, bản đồ về các điểm nguy cơ sạt lở cao tại địa phương mình...
Cách phòng tránh hiệu quả
Theo Phó Giáo sư - Tiến sỹ Trần Tân Văn, chuyên viên cao cấp về địa chất, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản (Bộ Tài nguyên và Môi trường), có hai nhóm nguyên nhân chính gây ra trượt, sạt lở đất đá liên tiếp xảy ra trong thời gian qua.
Thứ nhất là do mưa lớn kéo dài nhiều ngày làm cho đất đá bị bão hòa nước, khiến các sườn dốc trở nên mất ổn định hơn.
Thứ hai là do hoạt động của con người. Thực tế, các hoạt động dân sinh đã góp phần làm trầm trọng thêm các dấu hiệu mất ổn định của các khối đất đá tại những khu vực sườn dốc. Nghiên cứu cho thấy độ ổn định sườn dốc thường do ba nhóm yếu tố quyết định.
Đầu tiên là hình thái sườn dốc (như độ dốc, chiều cao, các chiều dài, rộng). Tiếp theo là tính chất cơ lý của đất đá tạo nên sườn dốc. Ví dụ ở các tỉnh khu vực Tây Nguyên - vốn phân bố nhiều đá núi lửa bazan, phong hóa ra thành đất đỏ có chiều dày lớn, tơi xốp dễ bị rửa trôi, bóc mòn, phá hủy kết cấu khi bão hòa nước.
Yếu tố cuối cùng là nước (gồm cả nước mặt lẫn nước ngầm). Các nhà địa chất, địa kỹ thuật thường nói “nước là kẻ thù của sườn dốc.” Thực tế, nước làm cho đất đá tạo nên sườn dốc bị bão hòa, giảm sức bền, tăng trọng lượng của khối trượt tiềm năng, từ đó dễ gây trượt.
Do vậy, những đợt mưa lớn kéo dài nhiều ngày kết hợp với hoạt động dân sinh của con người khiến đất đá tại các sườn núi bị bão hòa nhanh hơn, chính là yếu tố “kích hoạt” trực tiếp gây sạt trượt, nứt đất trong thời gian qua tại nhiều tỉnh, thành phố ở trên cả nước.
Liên quan tới vụ sạt lở tại đèo Bảo Lộc vừa qua, Phó Giáo sư - Tiến sỹ Trần Tân Văn nhận định, các hoạt động dân sinh mà thiếu tính toán, thiếu cân nhắc về hậu quả có thể xảy ra càng ngày càng đóng vai trò mấu chốt hơn trong việc gây ra hình thái tai biến địa chất trên.
Phải nhấn mạnh rằng, con người ngày càng “lấn sân” tự nhiên, cho nên việc xảy ra sạt lở đất đá do các hoạt động dân sinh (như trường hợp sạt lở nghiêm trọng tại đèo Bảo Lộc, vị trí sạt lở là ở đồi trồng sầu riêng) ngày càng nhiều hơn, cả về số lượng lẫn quy mô.
Mở rộng ra cả nước thì những điểm có địa hình, địa mạo như khu vực xảy ra sạt lở trên là rất lớn. Vì thế chúng ta cần phải rà soát và có biện pháp phòng, chống để giảm thiểu các sự cố tương tự có thể xảy ra.
Thông thường các vết nứt xuất hiện chính là một trong những dấu hiệu đầu tiên của một vụ sạt lở. Tiếp theo là các dòng nước lẫn bùn rỉ ra dưới chân sườn dốc, cây cối trồng trên sườn dốc bị nghiêng đổ. Theo thời gian nếu vết nứt càng ngày càng lớn, càng dài, càng sâu thì khả năng trượt lở sẽ càng cao. Vết nứt xuất hiện sẽ gây ra tiếng động, vết nứt càng lớn thì tiếng động càng lớn, chính là tiếng nổ mà nhiều người nghe được.
Tại những nơi có địa hình dốc và các hoạt động nhân sinh như san gạt lấy mặt bằng xây nhà cửa, công trình, làm đường sá, làm mất chân sườn dốc sẽ có nguy cơ trượt lở cao khi mưa lớn kéo dài ngày khiến đất đá bị bão hòa.
Thông thường, các sườn núi, sườn đồi tự nhiên sẽ ít xảy ra sạt trượt vì tất cả các quá trình phong hóa, xói mòn, rửa trôi trải qua mưa, nắng, gió hàng ngày, hàng mùa đã xảy ra từ từ, dần dần nên sườn dốc trở nên thoải, đạt đến một góc độ tối ưu, cân bằng, ổn định, ít khi trượt, sạt nữa.
Tuy nhiên, với những khu vực sườn núi tự nhiên có hoạt động nhân sinh tác động vào (như làm đường, mở rộng đường; san gạt, tạo mặt bằng để làm nhà, xây đô thị; chặt cây, đốt rừng để trồng cây ăn quả, làm mất đi lớp phủ thực vật bảo vệ tự nhiên, hay làm ứ đọng nước trên sườn dốc) thì khi đó sườn dốc không còn tự nhiên nữa, rất dễ mất ổn định, nhất là khi mưa lớn kéo dài dễ xảy ra sạt, trượt.
Với sườn dốc nhân tạo như các đoạn đường đất đắp, đất không có kết cấu tự nhiên thì nguy cơ sạt, trượt, nứt, sụt lún đất càng cao hơn.
Để hạn chế các rủi ro, thiệt hại do sạt lở có thể gây ra? chính quyền địa phương, đặc biệt là người dân tại các tỉnh miền núi lưu ý: Động thái đầu tiên các địa phương cần thực hiện là di dời người dân ra khỏi khu vực sạt trượt tiềm năng; tiếp đó là cần cử cán bộ kỹ thuật đến quan trắc, giám sát, theo dõi diễn biến của các vết nứt.
Nếu vết nứt tiếp tục phát triển thì khả năng cao là trượt lở sẽ xảy ra. Lúc này, chính quyền địa phương cần căn cứ kích cỡ các vết nứt để dự báo quy mô khối trượt, từ đó thực hiện di dời cho phù hợp, sau đó cân nhắc một số phương án xử lý.
Một giải pháp khác là cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục cộng đồng để người dân hiểu rõ mức độ nguy hiểm của việc san gạt, làm mất chân sườn dốc lấy mặt bằng xây dựng.
Các dự án làm đường rất hay để xảy ra tình trạng này, vì thế ngay từ đầu cần khảo sát, thiết kế, thi công các sườn dốc “nhân tạo” cẩn thận, có tính toán kỹ các hệ số an toàn và có giải pháp gia cường, phòng tránh, giảm nhẹ nguy cơ trượt lở.
Các nhà khoa học cũng đúc kết nhiều trường hợp xử lý trượt lở và thấy rằng thông thường các giải pháp công trình là rất tốn kém. Nếu bắt buộc vẫn phải xử lý bằng giải pháp công trình thì cần khảo sát, thiết kế và thi công kỹ lưỡng, trong đó thoát nước sườn dốc một cách hiệu quả là vô cùng quan trọng.