Băng nhóm lừa đảo đầu tư khai thác “kho báu quốc gia” lãnh án
Ngày 19/6, TAND TP.HCM đã tuyên phạt Lê Văn Tiến (SN 1970, ngụ Hà Nội) 15 năm tù, Nguyễn Văn Tâm Em (SN 1980, ngụ Bến tre) 14 năm tù và Nguyễn Thị Tuyết (SN 1971, ngụ Thanh Hoá) 13 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Theo cáo trạng, để có tiền tiêu xài, Lê Văn Tiến cùng Nguyễn Văn Tâm Em và Nguyễn Thị Tuyết đã bàn bạc, phân công vai trò để lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác bằng thủ đoạn đưa ra thông tin gian dối cho rằng, Tiến có mối quan hệ mật thiết với nhiều quan chức cấp cao.
Tiên nói được giao cho khai thác các kho báu rồi kêu gọi người khác đầu tư tiền vào khai thác để cùng chia lợi nhuận.
Tiến giao cho Tâm Em tìm mua tiền USD và tiền rồng vàng giả để Tiến đưa cho nạn nhân làm tin, đồng thời nhờ Lâm Thị Thảo (người quen Tiến) tìm người giới thiệu cho Tiến. Thảo giới thiệu bà Phan Thị A. là chị họ của Thảo đến gặp Tiến.
Ngày 19/4/2021, bà A. đến gặp Tiến tại nhà trọ của Tiến ở số 11/25 đường Nguyễn Đức Thuận, phường 13, quận Tân Bình. Tại đây, bà A. gặp Tiến, Tuyết và Tống Thị Thanh Thủy (bạn của Tiến và Tuyết).
Qua trao đổi với bà A, Tiến giới thiệu là đảng viên có mối quan hệ thân thiết với những người công tác ở Chính phủ, Công an, Quân đội, được giao cho khai thác các kho báu của quốc gia chứa rất nhiều tiền, đồ cổ quý hiếm... Tiến nói bà A. đầu tư tiền để nhận một kho báu là tiền USD, khoảng 10 ngày sau có lợi nhuận 1 triệu USD và được hưởng các chính sách lâu dài của Nhà nước.
Thảo cũng nói đã đến các kho báu ở Tây Ninh, Kiên Giang và đã đầu tư hiện nay là giai đoạn cuối, yên tâm đầu tư để được chia lợi nhuận.
Ngày 21/4/2021, bà A. đã đưa cho Tiến 500 triệu đồng, Tiến yêu cầu bà A. đầu tư thêm 1 tỷ đồng để được hưởng lợi nhiều.
Ngày 22/4/2021, bà A. tiếp tục giao cho Tiến 1 tỷ đồng. Để tạo niềm tin, Tiến viết giấy vay tiền rồi cùng Tuyết, Thủy ký xác nhận. Việc Tiến viết giấy vay tiền nhằm mục đích tạo niềm tin cho bà A., thực tế không có việc vay mượn.
Khi nhận được tiền từ bà A, Tiến gọi cho Nguyễn Văn Tâm Em đến rồi giao cho Tâm Em 1 tỷ đồng. Sau khi nhận tiền, Tiến đưa cho bà A 100 tờ USD, mệnh giá mỗi tờ là 1 triệu USD, Tiến nói đây là “tiền bảo chứng".
Tiến tiếp tục yêu cầu bà Ai đầu tư thêm 2 tỷ đồng để được chia lợi nhuận nhiều hơn. Bà A. đề nghị cho gặp người nhà trao đổi cụ thể thì Tiến đồng ý.
Ngày 23/4/2021 bà A. cùng chồng và hai con, trong đó có anh Trương Mạnh Đ. đến quán ăn trên đường Lê Thị Riêng, quận 1 gặp Tiến, Thủy, Đào Quốc Lộc và Diện (chưa rõ lai lịch).
Trong lúc ăn uống, Tiến giới thiệu Diện đã từng đầu tư vào dự án khai thác các kho báu quốc gia, giới thiệu Lộc đang công tác ở Chính phủ. Tiến nói tuần sau Lộc sẽ ra Hà Nội họp để làm thủ tục khai thác các kho báu.
Đồng thời, yêu cầu bà A. nhanh chóng đưa 2 tỷ đồng để Tiến đưa cho Lộc xử lý công việc. Ngày 24/4/2021, Tiến gọi điện thoại cho anh Đ. (con bà A.) yêu cầu đưa 2 tỷ đồng, anh Đ. hẹn ngày 26/4/2021 sẽ đưa tiền.
Bà A. nghi ngờ bị lừa đảo nên báo Công an, khoảng 12 giờ 30 ngày 26/4/2021, Tiến cùng Tuyết đi đến quán cà phê số 600 đường Trần Hưng Đạo, phường 2, quận 5 gặp anh Đ. để nhận số tiền 1 tỷ đồng, đồng thời đưa cho anh Đ. hộp gỗ bên trong chứa nhiều tiền rồng vàng thì bị Cảnh sát hình sự Công an TP.HCM bắt quả tang.
Số tiền lừa đảo của bà A, Tiến và Tuyết đưa 1 tỷ đồng cho Tâm Em, 100 triệu đồng trả tiền thuê văn phòng, còn lại 400 triệu đồng đưa cho Tuyết cất giữ để chuyển cho nhiều người khác nhau và trả nợ.
Đối với Lâm Thị Thảo đã giới thiệu bà A. đầu tư tiền cho Tiến, không tham gia bàn bạc, thỏa thuận trong việc chiếm đoạt tiền của bà A.
Mặt khác, giữa Thảo và bà A. có mối quan hệ bà con, vì muốn bà A. đầu tư sinh lợi nên Thảo mới giới thiệu bà A với Tiến, nên Cơ quan CSĐT xét thấy chưa đủ căn cứ xác định Thảo có vai trò đồng phạm nên không khởi tố điều tra.
Tống Thị Thanh Thủy biết và chứng kiến việc Tiến nhận tiền của bà A, có xác nhận vào giấy vay tiền cùng với Tiến và Tuyết. Thủy không bàn bạc và cũng không được chia số tiền chiếm đoạt. Việc Thủy xác nhận vào giấy vay tiền là do bà A. yêu cầu nên chưa đủ căn cứ xác định Thủy có vai trò đồng phạm.
Đối với Đào Quốc Lộc, Lộc không tham gia, không bàn bạc, không biết việc Tiến chiếm đoạt tiền bà A, không đủ căn cứ xác định Lộc đồng phạm nên CQĐT không xử lý.