Chính trị

Bộ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ Huỳnh Thành Đạt trả lời chất vấn

Mai Thoa 07/06/2023 - 10:41

Sáng nay 7/6, sau khi kết thúc chất vấn nhóm vấn đề thuộc lĩnh vực dân tộc, Bộ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ Huỳnh Thành Đạt là thành viên tiếp theo trả lời chất vấn nhóm vấn đề liên quan đến khoa học công nghệ.

Cần Chiến lược phát triển KH&CN quốc gia

Báo cáo một số nội dung liên quan đến nhóm vấn đề chất vấn thuộc lĩnh vực khoa học và công nghệ, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt cho biết: Ngày 11/4/2012, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 418/QĐ TTg phê duyệt Chiến lược phát triển KH&CN giai đoạn 2011-2020. Các nội dung của Chiến lược nhằm cụ thể hóa và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) giai đoạn 2011-2020 của quốc gia.

202110261906190313_bo-truong-bo-khoa-hoc-va-cong-nghe-huynh-thanh-dat-2-.jpg
Bộ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ Huỳnh Thành Đạt trả lời chất vấn các ĐBQH.

Sau 10 năm thực hiện, Chiến lược đã được triển khai tích cực, đúng hướng và đạt được nhiều kết quả quan trọng. Một số lĩnh vực khoa học tự nhiên đạt trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới; nhiều thành tựu KH&CN hiện đại được ứng dụng nhanh chóng và rộng rãi trong các lĩnh vực y tế, nông nghiệp, công nghiệp, thông tin, xây dựng... Kết thúc kỳ thực hiện Chiến lược, có 8/11 mục tiêu quan trọng đã đạt được.

Ngày 11/5/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chiến lược phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST) đến năm 2030 tại Quyết định số 569/QĐ-TTg.

Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, hệ thống quy định pháp luật nói chung còn thiếu sự đồng bộ, không thống nhất giữa quy định pháp luật về tài chính, đầu tư với quy định pháp luật về KH&CN. Cơ chế quản lý hoạt động KH&CN tuy đã có nhiều nỗ lực đổi mới nhưng tư duy chưa (không) chấp nhận rủi ro và độ trễ trong nghiên cứu khoa học còn phổ biến. Còn tồn tại một số vấn đề trái với quy luật phát triển khách quan của KH&CN; trái với thông lệ và thực tiễn pháp lý của các nước phát triển cùng ngưỡng về trình độ công nghệ ở Việt Nam hiện nay, tạo ra các điểm nghẽn trong việc đưa kết quả nghiên cứu vào sản xuất, kinh doanh.

Một số văn bản quy phạm pháp luật còn chậm được ban hành, hoặc chưa được ban hành, chưa phản ánh đặc thù hoạt động KH&CN. Hệ thống văn bản pháp luật về phân bổ, sử dụng NSNN cho nhiệm vụ KH&CN còn phức tạp, cồng kềnh và liên tục được ban hành mới, sửa đổi, bổ sung nên các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan gặp nhiều khó khăn trong việc quán triệt, áp dụng, Bộ trưởng cho hay.

Thị trường KH&CN phát triển còn chậm, còn ít các tổ chức trung gian có uy tín, kinh nghiệm trong hoạt động kết nối cung - cầu. Chưa khuyến khích, nuôi dưỡng và phát triển được nhiều các phát minh, sáng chế trở thành sản phẩm cuối cùng và thương mại hoá.

Hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia mới được hình thành, chưa đồng bộ và hiệu quả. Doanh nghiệp chưa thực sự là trung tâm, đóng vai trò quyết định cho đổi mới sáng tạo.

Đặc biệt, đội ngũ cán bộ KH&CN tuy có tăng về số lượng nhưng thiếu các nhà khoa học đầu ngành, chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; cơ chế đãi ngộ còn bất cập. Cơ sở vật chất kỹ thuật và trang thiết bị cho hoạt động KH&CN còn thiếu và chưa đồng bộ.

Chính vì vậy, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt nhấn mạnh việc tập trung thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng về lĩnh vực này; tập trung rà soát, sửa đổi, bổ sung hệ thống luật pháp, chính sách kinh tế, tài chính, đầu tư, thủ tục hành chính nhằm tháo gỡ các rào cản theo theo hướng phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế, tôn trọng đặc thù của lao động sáng tạo, chấp nhận rủi ro và độ trễ, dỡ bỏ các rào cản duy ý chí và hành chính hóa hoạt động KH&CN.

Đổi mới tư duy về trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các tổ chức KH&CN công lập. Trao quyền tự chủ tối đa gắn với trách nhiệm giải trình, chịu sự đánh giá độc lập về kết quả hoạt động và công khai kết quả đánh giá.

Chính sách tài chính chưa “cởi trói” cho hoạt động công nghệ

Về vấn đề cơ chế, chính sách khuyến khích tư nhân đầu tư nghiên cứu và ứng dụng KH&CN, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt cho biết, thời gian qua có nhiều văn bản của Nhà nước ban hành nhằm huy động, khuyến khích nguồn vốn xã hội, các nguồn vốn nước ngoài đầu tư cho phát triển KH&CN.

Cùng với đó hàng loạt thông tư cũng đã ra đời để tăng cường nguồn lực cho đầu tư nghiên cứu và ứng dụng KH&CN trong doanh nghiệp. Với quy định mới, doanh nghiệp được chủ động quyết định nội dung, kinh phí cho các nhiệm vụ khoa học, công nghệ của doanh nghiệp, từ đó sẽ xã hội hóa được các nguồn lực. Các nội dung chi của Quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp cũng thực tế hơn, phản ánh đúng các hoạt động cần thiết để đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp.

010620231150-z4394792200654_fd868966ede992f33ebf9e562ddce444.jpg
Các đại biểu Quốc hội tham gia phiên chất vấn tại hội trường sáng 7/6/2023

Bên cạnh đó, Bộ KH&CN thực hiện các hoạt động cụ thể hỗ trợ doanh nghiệp như: Xây dựng cơ sở dữ liệu mạng lưới các chuyên gia tư vấn về các công nghệ để hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng và đổi mới công nghệ; Tổ chức các sự kiện trình diễn, giới thiệu công nghệ như TECHDEMO, TECHCONNECT, TECHFEST, TECHMART...

Theo đó, tổng đầu tư xã hội cho KH,CN&ĐMST còn thấp, đầu tư còn dàn trải, chưa trọng tâm, trọng điểm và hiệu quả đầu tư chưa cao. Cơ chế quản lý tài chính, định mức tài chính, thủ tục cấp phát kinh phí KH&CN còn bất cập; giải ngân chậm và tỷ lệ giải ngân nguồn vốn ngân sách nhà nước cho KH&CN chưa đạt 100%...

Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt cũng cho rằng còn thiếu cơ chế, chính sách hữu hiệu để huy động nguồn lực của xã hội, trong đó có nguồn lực từ doanh nghiệp. Cơ chế tài chính chưa khuyến khích cho việc khoán đến sản phẩm cuối cùng.

Cơ chế, chính sách đầu tư công, tài chính công chưa “cởi trói” cho hoạt động KH,CN&ĐMST, mang nặng tính kiểm tra, giám sát tài chính, dàn trải, thiếu tập trung hơn là tháo gỡ khó khăn, dựa trên đánh giá chất lượng, hiệu quả đầu tư để khuyến khích và ưu tiên.

Bộ trưởng KH&CN cũng thừa nhận số lượng sản phẩm KH&CN được ứng dụng vào sản xuất và đời sống còn khiêm tốn. Các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa (chiếm trên 95%) khiến cho khả năng đầu tư cho ứng dụng, phát triển và đổi mới công nghệ bị hạn chế.

Các cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp chuyển giao, làm chủ, phát triển và đổi mới công nghệ đã được các cơ quan chức năng bổ sung, chỉnh sửa phù hợp, tuy nhiên vẫn chưa thực sự hiệu quả do thủ tục vẫn còn phức tạp và mất nhiều thời gian để các tổ chức, doanh nghiệp có thể tiếp cận thụ hưởng, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, tiềm lực chưa đủ lớn.

Về giải pháp cho tình trạng trên, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt cho biết, cần rà soát, sửa đổi, bổ sung một số luật để nâng cao chất lượng sản xuất sản phẩm, tăng cường việc ứng dụng và phát triển các công nghệ mới, hiện đại trong doanh nghiệp cũng như hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp Việt Nam tăng cường liên kết nghiên cứu với các tổ chức nghiên cứu trong và ngoài nước, các doanh nghiệp FDI để giúp các doanh nghiệp trong nước sớm tiếp cận, nghiên cứu, làm chủ và phát triển các công nghệ hiện đại.

Cùng với đó xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ, giảm thiểu rủi ro cho doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong nghiên cứu, phát triển và ứng dụng KH,CN&ĐMST. Đổi mới cơ chế quản lý tài chính nhiệm vụ KH&CN theo hướng chấp nhận nguyên tắc rủi ro và có độ trễ trong hoạt động KH,CN&ĐMST, Bộ trưởng nhấn mạnh.

Mai Thoa