Có một “bảo tàng nông nghiệp” giữa lòng Hà Nội
Đời sống - Ngày đăng : 15:42, 26/08/2014
Ông mong mỏi có một bảo tàng nông nghiệp quốc gia để ông có thể hiến những hiện vật của mình vào đó.
Bén duyên với “bảo tàng” từ lần đi ăn cỗ ở quê
Trần Phú Sơn ( trú tại số 3, ngõ 49 Vân Hồ 2, phường Lê Đại Hành, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội) sinh ra trong một gia đình công chức từ thời Pháp ở Đại Mỗ, Từ Liêm, Hà Nội. Ngay từ khi còn nhỏ, ông đã được tiếp xúc với những tinh hoa văn hoá của dân tộc, từ cách giáo dục của cha mẹ hình thành nên một con người yêu nghệ thuật luôn hướng tới những giá trị tốt đẹp cũng như bản sắc dân tộc.
Ông Trần Phú Sơn bên những hiện vật quý giá của mình.
Ở mảnh đất Vân Hồ, Trần Phú Sơn đã cho ra đời “bảo tàng” về đồ dùng sản xuất và sinh hoạt của nông thôn đồng bằng Bắc bộ xưa, và coi nó như một đứa con tinh thần. Một bảo tàng đơn sơ, mộc mạc không tủ kính và đèn chiếu sáng choang nhưng vẫn để lại cho chúng ta một chút dư vị chứa đựng cái gì đó thật ấm áp, chân chất và thân thuộc.
Ông kể, cái duyên đưa ông đến với đứa con tinh thần ấy bắt đầu từ năm 1985, trong một lần về quê ngoại ở Bắc Ninh ăn giỗ, ông Sơn thấy chủ nhà hô hào đám thanh niên khuân một chiếc cối giã gạo và một chiếc cối xay lúa vứt ra vườn. Lúc này trong đầu ông lóe lên suy nghĩ mới lạ. Sau bữa cỗ, ông Sơn xin 2 chiếc cối cũ đó, thuê xe chở về để tạm ở nhà bố mẹ vợ. Cuộc tìm kiếm đồ vật cũ của ông bắt đầu từ đó.
Ông tâm sự: “Từ hôm mang chiếc cối giã gạo và chiếc cối xay lúa về, mỗi khi đi ngủ tôi lại phải chạy lên chạy xuống ngắm nghía rồi mới ngủ được. Tôi luôn băn khoăn suy nghĩ liệu rằng nếu người nông dân mình những vật dụng cũ, hỏng vứt đi thì sau này hậu thế sẽ hiểu và biết về lịch sử nền nông nghiệp nước ta ra sao. Sau đó tôi nhận thấy mình phải làm một việc gì đó để lưu giữ những nét hồn quê cho hậu thế”.
Vì không phải nông dân, ông Sơn chưa hiểu rõ về những vật dụng mà người nông dân thường hay sử dụng, ông cũng không biết mình phải sưu tầm và tìm kiếm những đồ vật hay nông cụ gì. Thời gian đầu hầu như ông chủ yếu tìm đến nhà người quen, họ hàng để lùng xin những thứ đồ “quê mùa” mà họ không còn dùng tới. May mắn người hàng xóm cạnh nhà ông Sơn là Chủ nhiệm Hợp tác xã nông nghiệp cũng đã giúp ông rất nhiều trong việc tìm hiểu cuộc sống sinh hoạt của người nông dân. Đây cũng là người đã giúp ông tìm kiếm, sưu tầm một số hiện vật quý hiếm.
Theo ông, nếu không nhanh chóng thu thập, sưu tầm thì chẳng mấy chốc, các đồ vật ấy biến mất, khó có thể tìm được nữa bởi với người nông dân, đồ hỏng thì giữ lại làm gì, bán hoặc vứt đi cho rộng nhà, rộng cửa. Thế nên, ông quyết định tìm kiếm sưu tầm đồ vật cũ. Ngôi nhà 2 tầng rộng rãi bỗng chốc trở nên chật chội, ông đã xây thêm một căn gác rộng 80m2 trên tầng 2 để có chỗ trưng bày hiện vật.
Mỗi lần về quê, ông thường quan sát xem có vật dụng nào lạ mắt liên quan đến sản xuất và sinh hoạt hàng ngày của người dân, họ không dùng nữa ông lại xin về. Lúc thì ông xin được chiếc đấu đong gạo, lúc thì cái cày, cái cuốc để mang về. Thế là tình cờ trong hai lần đi ăn cỗ ở huyện Yên Dũng và Hiệp Hòa (Bắc Giang), ông Sơn đã sưu tầm thêm được chiếc đấu cổ bằng gỗ đựng thóc và chiếc chạn bát. Chiếc ống đũa sưu tầm trước đó ở Nam Định khi kết hợp với chạn bát mang về từ Bắc Giang thì vừa đẹp. Ông nói “Có được hiện vật đối với người sưu tầm chẳng khác gì đứa con tinh thần quý giá lắm.”
Từ khi ông Sơn mở cửa “bảo tàng” đến nay đã thu hút được khá nhiều khách trong và ngoài nước, trong đó có cả giới họa sỹ và người nông dân. Đối với những người hoạ sỹ khi muốn vẽ tác phẩm của mình về nông thôn Việt Nam xưa thì khi đến đây quan sát thật kỹ những hiện vật được trưng bày để diễn tả một cách chân thật và sinh động nhất. Người nông dân khi ngắm nhìn những hình ảnh quen thuộc họ cảm thấy tự hào hơn, đây là những sản phẩm do ông cha ta sáng tạo ra từ bao đời để phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt.
Tháng 1/2008, ông Sơn được Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam xác lập kỷ lục về “Bộ sưu tập cá nhân chuyên về sản xuất và sinh hoạt của nông dân Bắc bộ xưa và nhiều nhất”. Trước đó vào năm 2004, ông Sơn cũng được Ban quản lý khu lưu niệm Nguyễn Du chứng nhận người đã hiến tặng 231 cuốn sách và hiện vật tư liệu về Nguyễn Du và Truyện Kiều cho Ban quản lý di tích Nguyễn Du.
Đáng chú ý là hiện nay, bảo tàng của ông là nơi duy nhất lưu giữ những chiếc cày của dân tộc ta, có 4 loại cày tương ứng cho 4 giai đoạn bao gồm: cày chìa vôi, cày chìa vôi cải tiến, cày cải tiến 51(ra đời năm 1951) và cày cải tiến 58 (ra đời năm 1958) cùng nhiều vật dụng như nong, nia, giần, sàng, giường, chõng tre, điếu cày, quạt mo cau, võng dây gai…
Bảo tàng với 500 hiện vật quý
Trong xu hướng đô thị hoá nông thôn, cả không gian và thời gian về một miền quê thanh bình thuở xưa như đang dần khiến người ta đoạn tuyệt với quá khứ thì những hiện vật mà Trần Phú Sơn sưu tầm đẩy ta về với không gian cội nguồn. Những chiếc cối giã gạo dậm chân, cho ra những “hạt ngọc” tinh khiết; những chiếc cầy, cái bừa, gầu tát nước, áo tơi và nhiều công cụ sản xuất khác mang cả hơi thở của sự phát triển lịch sử xã hội nước ta. Những chiếc đó, chiếc đơm, nơm, giỏ, đụt… của nhiều miền quê quy tụ lại trông một không gian nhỏ của ông. Hơn 500 hiện vật được ông phân thành 2 khu đó là khu sản xuất và khu sinh hoạt một cách tỉ mỉ. Mỗi một hiện vật đều tái hiện sinh động cuộc sống của nông dân đồng bằng Bắc bộ xưa kia.
Trong sinh hoạt hàng ngày, ông trưng bày đơn sơ những chiếc trạn tre đây là bộ ông đầu rau bằng đất, khi nhìn vào đó tạo ra cho chúng ta một không gian cửa những chiếc nồi đồng tròn, lồi đáy… Trong sinh hoạt tâm linh, ông đặt ngay ở giữa nhà một chiếc bàn thờ, cạnh đó là một chiếc giường và bộ tràng kỷ bằng tre, một khay trà, một điếu bát, đây cũng là nơi tiếp khách của ông.
Được biết cho đến thời điểm này, cổ nhất trong các hiện vật ông đang có là chiếc bát đời Lý (khoảng thế kỷ 11) đã được Bảo tàng Lịch sử giám định, chiếc bát cổ thời Lý - Trần (thế kỷ 13-14), bát cổ thời Mạc (thế kỷ 16). Rất nhiều đồ đồng (mâm đồng, chậu đồng, nồi đồng, sanh đồng thuộc thế kỷ 17-18.
Ở cái tuổi thất thập cổ lai hy nhưng ông Trần Phú Sơn vẫn hy vọng tìm được những hiện vật cổ xưa như chiếc cuốc bằng gộc tre, bộ xà tích bạc và cái têm trầu vôi bằng đồng của các cụ già ngày xưa. Kèm theo đó là những bộ y phục nam, nữ thì có khăn vấn mỏ quạ, áo mớ ba mớ bảy, váy đen, nam thì đóng khố. Những đồ vật mà gần 30 năm nay ông vẫn chưa tìm được.
Những hiện vật ông Trần Phú Sơn đang lưu giữ trong “bảo tàng nông nghiệp” của mình là một cái nhìn toàn cảnh về đời sống sinh hoạt và sản xuất của nông dân đồng bằng Bắc bộ xưa. Bảo tàng nông nghiệp đã đưa người xem về với không gian của cội nguồn tổ tiên ông cha ta đã sản xuất sinh hoạt như thế nào. Đây là điều đáng quý mà không phải ai cũng làm được.