Đại thắng mùa Xuân 1975 - Chiến thắng của sức mạnh đại đoàn kết dân tộc
Chính trị - Ngày đăng : 12:28, 23/04/2015
Thắng lợi oanh liệt đó đồng thời kết thúc vẻ vang sự nghiệp giải phóng dân tộc kéo dài suốt 30 năm đấu tranh chống xâm lược ngoan cường, bền bỉ của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, tạo ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc, đưa cả nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc và CNXH.
Thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước để lại cho dân tộc ta nhiều bài học vô giá, không chỉ có ý nghĩa đối với chúng ta hôm nay, mà còn với cả mai sau. Thắng lợi đó là thành quả của một loạt nhân tố, trong đó, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là một nhân tố cơ bản, quan trọng nhất. Nguồn gốc của mọi nhân tố ấy chính là sự lãnh đạo của Đảng với đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo. Với đường lối đó, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy cao độ, kết hợp với sức mạnh đoàn kết quốc tế và sức mạnh thời đại, tạo nên sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam để kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Ngay từ khi ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, quan điểm của Đảng ta về đại đoàn kết toàn dân tộc luôn thống nhất với tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/ Thành công, thành công, đại thành công”.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhờ sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng, trước hết là trong Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị nên Đảng ta đã phát huy cao nhất sức sáng tạo, trí tuệ tập thể, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn. Đường lối cách mạng đó là: Tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng ở hai miền: Cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng XHCN ở miền Bắc, nhằm hoàn thành mục tiêu chung của cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đưa cả nước tiến lên CNXH. Cùng với việc định ra đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn, Đảng ta đã có những chủ trương, sách lược phù hợp và có sự chỉ đạo chiến lược sắc bén, tài tình để đánh bại địch từng bước, phát triển lực lượng của ta, tạo bước ngoặt làm chuyển biến cục diện chiến trường, rồi nắm chắc thời cơ, đánh đòn quyết định, giành thắng lợi trọn vẹn.
Vai trò hạt nhân trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc thể hiện ở sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng; từ đó tạo ra chất keo gắn bó toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và kết thành một khối vững chắc, rộng khắp, không gì phá vỡ nổi. Trong cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975, nhờ đoàn kết, nhất trí cao độ, Đảng ta đã đưa ra được những quyết định cực kỳ sáng suốt và chính xác: Phân tích, đánh giá đúng tình hình thế giới, trong nước; so sánh lực lượng địch - ta; xác định đúng thời cơ lịch sử, hạ quyết tâm chiến lược chính xác để mở cuộc Tổng tiến công chiến lược, đánh bại hoàn toàn quân địch, giành thắng lợi triệt để trong thời gian ngắn nhất. Việc đưa ra những quyết định mang tính lịch sử, thể hiện tài thao lược, trí thông minh, sáng tạo tuyệt vời của Đảng. Đó không phải là sản phẩm của tư duy, ý chí của một cá nhân, mà của cả tập thể lãnh đạo, bắt nguồn từ sự đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng. Đó cũng là ý chí của toàn dân tộc, bắt nguồn từ sự đoàn kết cao độ của cả một dân tộc, tạo bước ngoặt mang tính lịch sử để nhân dân ta đi đến kết thúc chiến tranh, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Diễu binh mừng ngày đất nước thống nhất
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng và nhân dân ta đã đoàn kết thành một khối vững chắc bằng những mối dây liên hệ vô cùng bền chặt. Đảng hết lòng vì dân, tin dân, tin vào sức mạnh dời non lấp biển của nhân dân và dân một lòng theo Đảng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Đó là mối quan hệ máu thịt Đảng với Dân, Dân với Đảng. Điều đó lý giải vì sao kẻ thù tìm mọi cách chia rẽ Đảng với nhân dân, nhưng chúng càng chia rẽ bao nhiêu thì Đảng ta và nhân dân ta càng kết đoàn lại với nhau bấy nhiêu.
Mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và nhân dân đã tác động mạnh mẽ, sâu sắc đến tất cả các giai cấp, tầng lớp nhân dân và các dân tộc ở cả hai miền Nam - Bắc. Ngay sau khi Hiệp định Giơnevơ (năm 1954) được ký kết, đất nước ta tạm thời chia làm hai miền; giới tuyến sông Bến Hải chỉ có thể tạm thời ngăn cách đồng bào ta về mặt địa lý, chứ tuyệt nhiên không thể chia cắt được tình ruột thịt, sự đoàn kết của đồng bào hai miền Nam - Bắc. Đồng bào miền Bắc đau với nỗi đau của đồng bào miền Nam, luôn lo lắng, tìm mọi cách “chia lửa”, chi viện đắc lực sức người, sức của với tinh thần “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người” cho tiền tuyến lớn miền Nam đánh Mỹ. Đồng bào miền Nam luôn hướng về hậu phương lớn miền Bắc-nơi cội nguồn cách mạng. Đồng bào miền Nam hướng về miền Bắc còn vì ở đó có Bác Hồ kính yêu - vị lãnh tụ thiên tài của cách mạng Việt Nam và là biểu tượng sáng ngời của tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, của khát vọng và ý chí, quyết tâm sắt đá: Giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, Bắc - Nam sum họp một nhà.
Cũng như tình cảm Bắc-Nam sâu nặng, tình quân-dân đã trở thành một hình ảnh tiêu biểu của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Sở dĩ có được tình cảm đó là vì Quân đội ta được sinh ra từ nhân dân; mục tiêu chiến đấu của Quân đội thống nhất với mục tiêu của Đảng và nhân dân là Độc lập dân tộc và CNXH; nhiệm vụ chính trị hàng đầu của Quân đội ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là cùng toàn dân đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giành độc lập, tự do cho dân tộc, thu non sông về một mối.
Bắt nguồn từ truyền thống yêu nước, truyền thống đoàn kết, đặc biệt nhờ mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân và nhờ có sự lãnh đạo của Đảng, khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo không ngừng được củng cố và ngày càng phát triển rộng rãi, vững chắc. Điều đó lý giải vì sao kẻ thù càng ra sức chia rẽ dân tộc, chia rẽ lương-giáo thì nhân dân ta càng đoàn kết. Chúng càng tàn sát dã man nhân dân ta, thì 54 dân tộc anh em, thì 31 triệu đồng bào ta khi đó càng sôi sục căm thù và càng đoàn kết với nhau hơn.
Đó là nguyên nhân dẫn đến thành công của sự nghiệp xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nhờ đó mà chúng ta chẳng những chiếm ưu thế tuyệt đối về nhân tố chính trị, tinh thần đối với Mỹ - Ngụy, mà còn tạo ra sức mạnh áp đảo chúng về lực lượng trong những thời điểm cần thiết, tiêu biểu là trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975. Một bộ máy chiến tranh chuyên nghiệp đầy tham vọng với một quân đội nhà nghề được trang bị hiện đại nhất thế giới đã thua ở Việt Nam. Một chính quyền tay sai với một quân đội mà trang bị của nó được coi là hiện đại nhất châu Á, đã bị đánh bại. Đó là sức mạnh Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh - sức mạnh được kết tinh từ nhiều nhân tố, cả lực lượng vật chất và tinh thần, bao hàm cả sức mạnh đoàn kết của 31 triệu con người quyết không chịu làm nô lệ.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là minh chứng sinh động về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tăng cường đoàn kết quốc tế, tạo sức mạnh tổng hợp lớn nhất để đánh thắng kẻ thù xâm lược.
Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, trên thực tế, không chỉ là vấn đề sống còn của dân tộc, mà còn có ý nghĩa thời đại to lớn. Vì vậy, trong khi xác định lấy sức mình là chính, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng kết hợp đoàn kết dân tộc với đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong suốt cuộc kháng chiến nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để đánh thắng kẻ thù. Xuất phát từ thực tế Đông Dương là một chiến trường, ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia đều có chung một kẻ thù và đều chung một mục tiêu giành độc lập dân tộc, nên ba nước chẳng những phải đoàn kết, mà còn phải liên minh chiến đấu. Nhận thức rõ vấn đề đó và quán triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “giúp bạn là tự giúp mình”, Đảng và nhân dân ta luôn ra sức xây dựng, củng cố tình đoàn kết, liên minh chiến đấu với hai nước bạn Lào và Campuchia, cùng nhau chia sẻ gian khổ, hy sinh, cũng như thuận lợi, với tình cảm vô tư, trong sáng, nhất mực thủy chung. Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ba nước luôn sát cánh bên nhau xây dựng, chiến đấu với tinh thần "Hạt muối cắn đôi, cọng rau bẻ nửa". Tình đoàn kết keo sơn ấy đã nhân sức mạnh của ba nước lên gấp bội, để cuối cùng, cùng nhau chiến đấu và chiến thắng kẻ thù, giành độc lập, thống nhất ở mỗi nước.
Cùng với xây dựng tình đoàn kết, sát cánh chiến đấu với hai nước bạn trên chiến trường Đông Dương, Đảng ta chủ trương trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng phải thực hiện cho được sự đoàn kết với các lực lượng cách mạng của thời đại. Với chủ trương ấy, Đảng ta và Hồ Chủ tịch luôn chăm lo vun đắp và phát triển tình đoàn kết giữa nước ta với các nước trong hệ thống XHCN, trước hết là với Liên Xô và Trung Quốc. Chúng ta đã nhận được sự ủng hộ to lớn cả về vật chất lẫn tinh thần của các Đảng Cộng sản, các nước anh em và các lực lượng yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới. Đó cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng thúc đẩy cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta mau đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Đại thắng mùa Xuân 1975 cũng như thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả vĩ đại của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc thời đại Hồ Chí Minh. Đó mãi mãi là bài học có giá trị to lớn và sâu sắc đối với cách mạng Việt Nam.