Tiếp tục rà soát dự thảo Nghị quyết về Quy hoạch tổng thể quốc gia để hoàn thiện trình Quốc hội
Chính trị - Ngày đăng : 18:14, 21/12/2022
Trình bày Tờ trình về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, thực hiện Nghị quyết số 61/2022/QH15 ngày 16/6/2022 của Quốc hội về tiếp tục tăng cường hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật về quy hoạch và một số giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ lập và nâng cao chất lượng quy hoạch thời kỳ 2021-2030, Chính phủ báo cáo về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Phát triển các vùng động lực, cực tăng trưởng quốc gia
Tóm lược những nội dung chủ yếu của Quy hoạch tổng thể quốc gia, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, Quy hoạch tổng thể quốc gia nêu rõ các quan điểm phát triển và tổ chức không gian phát triển. Mục tiêu tổng quát phấn đấu đến năm 2030 là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, tăng trưởng kinh tế dựa trên nền tảng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; mô hình tổ chức không gian phát triển quốc gia hiệu quả, thống nhất, bền vững, hình thành được các vùng, trung tâm kinh tế, đô thị động lực, có mạng lưới kết cấu hạ tầng cơ bản đồng bộ, hiện đại; bảo đảm các cân đối lớn, nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế; quốc phòng, an ninh được bảo đảm...
Về các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu, phấn đấu tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) cả nước bình quân đạt khoảng 7,0%/năm giai đoạn 2021-2030, trong đó vùng Đông Nam Bộ tăng khoảng 8-8,5%/năm, vùng Đồng bằng sông Hồng khoảng 9%/năm. Đến năm 2030, GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt khoảng 7.500 USD...
Về những nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ quy hoạch sẽ hình thành cơ bản bộ khung kết cấu hạ tầng quốc gia, tập trung vào hạ tầng giao thông, hạ tầng đô thị, hạ tầng nông thôn, hạ tầng năng lượng, hạ tầng số, hạ tầng văn hóa, xã hội, hạ tầng thủy lợi, bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. Ưu tiên phát triển một số ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế và còn dư địa lớn, gắn với không gian phát triển mới.
Phát triển các vùng động lực, cực tăng trưởng quốc gia quan trọng để hình thành các đầu tàu dẫn dắt sự phát triển của quốc gia. Lựa chọn một số địa điểm, đô thị, vùng có lợi thế đặc biệt để xây dựng trung tâm kinh tế, tài chính, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt với thể chế, cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội có tính đột phá, có khả năng cạnh tranh quốc tế cao.
Hình thành và phát triển các hành lang kinh tế theo trục Bắc - Nam, các hành lang kinh tế Đông - Tây, các vành đai kinh tế ven biển; kết nối hiệu quả các cảng biển, cảng hàng không, cửa khẩu quốc tế, đầu mối giao thương lớn, các đô thị, trung tâm kinh tế, cực tăng trưởng. Phát triển các vành đai công nghiệp - đô thị - dịch vụ tại các vùng động lực, vùng đô thị lớn.
Tờ trình Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng trình bày cũng nêu các định hướng phát triển và phân bố không gian các ngành, lĩnh vực chủ yếu như phát triển một số ngành công nghiệp, dịch vụ, xây dựng các vùng sản xuất nông nghiệp tập trung gắn với phát triển các trung tâm công nghiệp chế biến; phát triển các ngành hạ tầng kỹ thuật; các ngành hạ tầng xã hội.
Về định hướng tổ chức không gian theo vùng, lãnh thổ, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, Quy hoạch tổng thể nêu định hướng phát triển các vùng động lực quốc gia, hành lang kinh tế; Định hướng phát triển không gian biển; Định hướng sử dụng đất quốc gia; Định hướng khai thác và sử dụng vùng trời; Tổ chức không gian phát triển vùng và định hướng liên kết vùng.
Trong đó, đối với định hướng phát triển hệ thống đô thị và nông thôn quốc gia, Quy hoạch tổng thể quốc gia xác định xây dựng hệ thống đô thị quốc gia theo mô hình mạng lưới, xanh, thông minh, bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu. Xây dựng, phát triển Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố trực thuộc Trung ương thành các đô thị năng động, sáng tạo, dẫn dắt và tạo hiệu ứng lan tỏa, liên kết vùng đô thị; đủ sức cạnh tranh, hội nhập khu vực và quốc tế, có vai trò quan trọng trong mạng lưới đô thị của khu vực Đông Nam Á, châu Á. Quan tâm phát triển các đô thị trung bình và nhỏ.
Phát triển nông thôn toàn diện, hiện đại, xanh, sạch, đẹp gắn với quá trình đô thị hóa, có cơ sở hạ tầng, dịch vụ xã hội đồng bộ và tiệm cận với khu vực đô thị; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; tạo sinh kế bền vững cho người dân; xã hội nông thôn ổn định; dân trí được nâng cao; an ninh, trật tự được đảm bảo. Xây dựng các mô hình phân bố dân cư phù hợp với từng vùng sinh thái tự nhiên và các đặc điểm văn hoá, dân tộc, điều kiện kinh tế - xã hội.
Về định hướng sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu, phân bổ tài nguyên nước hài hòa, hợp lý giữa các ngành, các địa phương; bảo đảm hiệu quả tổng hợp về kinh tế, xã hội, môi trường trên các lưu vực sông. Bảo vệ, phát triển và sử dụng bền vững tài nguyên rừng; kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Ngăn chặn xu hướng gia tăng ô nhiễm, suy thoái môi trường; giải quyết các vấn đề môi trường cấp bách; từng bước cải thiện, phục hồi chất lượng môi trường. Bảo tồn, bảo vệ, mở rộng hệ thống các khu bảo tồn thiên nhiên, vùng đất ngập nước, khu vực cảnh quan sinh thái quan trọng, các hành lang đa dạng sinh học.
Chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, từng bước quản lý rủi ro thiên tai, tạo điều kiện phát triển bền vững. Củng cố, nâng cấp, hoàn thiện hệ thống công trình phòng, chống thiên tai. Thực hiện giảm phát thải khí nhà kính của các lĩnh vực, phấn đấu theo mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 của quốc gia…
Về giải pháp, nguồn lực thực hiện quy hoạch, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nêu rõ, trong Quy hoạch tổng thể quốc gia đã dự báo tổng nhu cầu và cơ cấu vốn đầu tư để thực hiện quy hoạch, xây dựng hệ thống các giải pháp để huy động nguồn lực từ các khu vực kinh tế; đồng thời dự báo nhu cầu lao động cho nền kinh tế và đề xuất các giải pháp về phát triển, sử dụng nguồn nhân lực.
Trong các giải pháp về cơ chế, chính sách, Quy hoạch nhấn mạnh ưu tiên phát triển mạng lưới hạ tầng quy mô lớn của các vùng động lực quốc gia và thúc đẩy hình thành các hành lang kinh tế ưu tiên; bên cạnh đó, quan tâm các khu vực khó khăn, tạo điều kiện tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Ngoài ra, Quy hoạch cũng đề ra các giải pháp về phát triển khoa học, công nghệ, bảo vệ môi trường và tăng cường hợp tác quốc tế.
Cân đối các giải pháp, nguồn lực thực hiện quy hoạch bảo đảm tính khả thi, phù hợp
Thẩm tra về Quy hoạch tổng thể quốc gia, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết, Quy hoạch tổng thể quốc gia đặt ra nhiều nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ quy hoạch cũng như nhiều định hướng phát triển (đặc biệt riêng định hướng phát triển không gian kinh tế - xã hội đã bao gồm 4 vùng động lực quốc gia, 10 hành lang kinh tế, 2 khu vực lãnh thổ cần bảo tồn và vùng hạn chế phát triển và 3 ngành quan trọng cần phát triển) cho thấy khối lượng công việc, nhiệm vụ cần phải triển khai, thực hiện là rất lớn, đòi hỏi nguồn lực đầu tư phải tương xứng, không chỉ về nguồn vốn mà cả về nhân lực được đào tạo phải đủ trình độ để ứng dụng tiến bộ của khoa học, công nghệ.
Do đó, cơ quan thẩm tra đề nghị cân đối các giải pháp, nguồn lực thực hiện quy hoạch bảo đảm tính khả thi, phù hợp với điều kiện, tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Về quan điểm tổ chức không gian phát triển, có ý kiến cho rằng, ngoài tích hợp phát triển và bảo đảm liên kết vùng, cần nhấn mạnh đến “giảm chồng chéo, chồng lấn, xung đột trong sử dụng không gian giữa các ngành, các địa phương…”.
Ủy ban Kinh tế cho biết, báo cáo của Chính phủ đưa ra 2 kịch bản phát triển, trong đó kịch bản 1 là kịch bản có tính thận trọng hơn với mức tăng trưởng bình quân giai đoạn 2021-2030 đạt 6,3%/năm; kịch bản 2 là kịch bản phấn đấu với mức tăng trưởng bình quân giai đoạn 2021-2030 đạt 7,05%.
Kịch bản 2 là cơ sở để xác định các mục tiêu phát triển đất nước trong thời kỳ quy hoạch. Như vậy, việc xác định mức tăng trưởng bình quân trong kỳ quy hoạch đạt 7,0%/năm là sát với kịch bản phấn đấu (kịch bản 2). Tuy nhiên, đề nghị cần giải trình, làm rõ hơn cơ sở đưa ra mục tiêu tăng trưởng khác với mục tiêu cụ thể mà kịch bản 2 đưa ra.
“ Thường trực Ủy ban Kinh tế nhận thấy hồ sơ Quy hoạch tổng thể quốc gia còn nhiều nội dung cần tiếp tục tiếp thu, chỉnh lý, giải trình. Đồng thời, còn nhiều ý kiến khác nhau về mức độ chi tiết, do đó cần tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện hồ sơ, đặc biệt là dự thảo Nghị quyết trình Quốc hội thông qua”, ông Vũ Hồng Thanh nói.
Tham gia thảo luận, Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Bùi Văn Cường thống nhất cao với Tờ trình và hồ sơ của Chính phủ, đồng thời cho biết, đây là vấn đề mới, nội dung khó, phạm vi rộng chưa có tiền lệ, nhưng Chính phủ đã chuẩn bị kỹ lưỡng, toàn diện. Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế cũng đã nêu ra nhiều vấn đề quan trọng cần điều chỉnh, Chính phủ cần tiếp thu để hoàn thiện thêm hồ sơ gửi tới các đại biểu Quốc hội.
Đi vào một số nội dung cụ thể, Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Bùi Văn Cường cho rằng trong quy hoạch biển, những vấn đề liên quan đến dịch vụ hàng hải, vận tải đường biển còn chưa được đậm nét, đề nghị cần đầu tư nghiên cứu để làm sâu sắc nội dung này, tận dụng tốt những lợi thế của Việt Nam để xây dựng, phát triển hệ thống cảng biển, đội tàu, đưa giao thông đường biển phát triển xứng tầm. Ngoài ra, Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Bùi Văn Cường cũng đề nghị cần có sự chú trọng đúng mức cho giao thông đường sắt.
Điều 13 trong dự thảo Nghị quyết có quy định: Danh mục chương trình, dự án quan trọng của quốc gia xác định trong quy hoạch chỉ mang tính định hướng, có thể được xem xét điều chỉnh, bổ sung trong quá trình quyết định chủ trương đầu tư theo quy định của pháp luật. Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Bùi Văn Cường đề nghị cần làm rõ cách thức quy trình điều chỉnh, bổ sung danh mục các dự án quan trọng của quốc gia.
Tiếp tục rà soát để hoàn thiện trình Quốc hội tại kỳ họp bất thường
Phát biểu tại phiên họp, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cho biết, một trong những thuận lợi của việc lập Quy hoạch tổng thể quốc gia là có cơ sở chính trị khi được Hội nghị Trung ương 6 ra kết luận. Về mặt pháp lý có Luật Quy hoạch và nghị quyết về giám sát của Quốc hội giao nhiệm vụ cho Chính phủ về vấn đề này.
Chủ tịch Quốc hội đánh giá cao nỗ lực của Chính phủ mà đầu mối là Bộ Kế hoạch và Đầu tư và cơ quan chủ trì thẩm tra là Ủy ban Kinh tế. Các cơ quan chuẩn bị công phu, kỹ lưỡng, lấy ý kiến các chuyên gia, tổ chức hội nghị, hội thảo và các ý kiến góp ý đều có giải trình, tiếp thu, báo cáo rõ.
Chủ tịch Quốc hội cho rằng, trên cơ sở ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại phiên họp lần này, các cơ quan tiếp tục rà soát để hoàn thiện dự thảo Nghị quyết trình Quốc hội tại kỳ họp bất thường tới.
Chủ tịch Quốc hội đề nghị về bố cục và kết cấu, đề nghị rà soát tuân theo quy định của Luật Quy hoạch. Về phạm vi ranh giới lập Quy hoạch cần bảo đảm thống nhất đồng bộ với các luật hiện hành. Quan điểm, tầm nhìn và mục tiêu phát triển cần thể hiện ngay và rõ.
Góp ý vào các nội dung cụ thể của dự thảo Nghị quyết, Chủ tịch Quốc hội đề nghị nêu rõ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về phát triển hệ thống nông thôn, lưu ý nghiên cứu bổ sung nội dung chủ trương phát triển mỗi xã 1 sản phẩm OCOP trong phát triển nông nghiệp; tập trung xử lý môi trường nhất là rác thải, nước thải, mục tiêu đạt 90% đạt chuẩn nông thôn mới… khuyến khích phát triển kinh tế tuần hoàn.
Hệ thống chỉ tiêu cơ bản tán thành với dự thảo phải tính đến trong điều kiện bình thường,, các chỉ tiêu này phù hợp với kết luận Trung ương và có dự phòng trong trường hợp có các cú sốc.
Về phát triển kết cấu hạ tầng đề nghị nhấn mạnh phát triển đồng bộ hiện đại hạ tầng kỹ thuật, thông tin, năng lượng và hạ tầng số quốc gia; xác định cụ thể khung kết cấu hạ tầng quốc gia bên cạnh đường bộ chú trọng đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam và đa phương thức vận tải khác; phát triển hạ tầng cho kinh tế tuần hoàn, bảo vệ môi trường; bổ sung chỉ tiêu về xanh hóa, phát triển đô thị xanh và bền vững… Nhấn mạnh, mục tiêu phát triển giáo dục cần có ưu tiên cao.
Đánh giá cao khi Quy hoạch lần này chú trọng hành lang kinh tế Đông – Tây, song Chủ tịch Quốc hội cũng đề nghị lưu ý chú trong hơn đến kết nối khu vực và quốc tế, có sự chọn lọc những tuyến quan trọng để ưu tiên đầu tư phát triển trước.
Về du lịch, đề nghị nhấn mạnh hơn đến tạo lập trung tâm du lịch cấp quốc gia, cấp vùng, chú trọng hạ tầng, môi trường, tài nguyên, sản phẩm và doanh nghiệp du lịch.
Về định hướng phát triển công nghiệp, nghiên cứu bổ sung để nhấn mạnh công nghiệp hỗ trợ phục vụ nông nghiệp, nông thôn. Nên đặt vấn đề bố trí không gian có phương án xử lý giảm dần khu công nghiệp nhà máy có nguy cơ ô nhiễm cao, cần có lộ trình để thực hiện; bổ sung định hướng phát triển nông nghiệp hiện đại, thông minh, phát triển vùng sản xuất lớn, chuyên canh hữu cơ, bố trí không gian nông nghệp gắn với hạ tầng giao thông, gắn với phát triển tiêu thụ, xuất khẩu.
Ngoài ra, Chủ tịch Quốc hội cũng lưu ý đến các nội dung phát triển các vùng không gian, phát triển văn hóa, nhấn mạnh; phát triển các ngành hạ tầng kỹ thuật nghiên cứu mô hình TOD, chú ý phát triển hạ tầng giao thông gắn với phát triển đô thị; về danh mục dự án quan trọng quốc gia cần nêu dự kiến; tính toán bổ sung các nguồn lực; phát triển nhân lực cần gắn với phân bổ dân cư. Chủ tịch Quốc hội lưu ý để có quy định về chu kỳ rà soát, điều chỉnh Quy hoạch.