Học Bác, cán bộ ngành Tòa án thêm “gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”
Chính trị - Ngày đăng : 07:43, 13/09/2021
“Vấn đề tư pháp là vấn đề ở đời và làm người”
Sinh thời, Hồ Chủ tịch luôn quan tâm và dày công xây dựng Đảng ta thành một khối vững mạnh, trong sạch, chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng, đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên trở thành con người vừa hồng vừa chuyên. Suốt cả cuộc đời Người hy sinh cho sự nghiệp cách mạng, cho độc lập dân tộc, cho cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân và cho toàn thể nhân loại. Đối với từng lĩnh vực công tác, mỗi đối tượng khác nhau, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều có những tư tưởng tình cảm, lời dạy, nhắc nhở ân cần, cụ thể.
Khi phải bôn ba khắp thế giới để tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định tính thiết yếu của pháp luật và pháp quyền đối với việc bảo đảm quyền độc lập, tự do cho dân tộc, quyền dân chủ và các quyền cơ bản của con người. Người khẳng định: “Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Nhà nước pháp quyền phải thượng tôn pháp luật, pháp luật phải bảo đảm được công lý và lẽ phải. Cốt lõi giá trị trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là quan điểm vì con người và giải phóng con người, vì đất nước, vì dân tộc. Đó là chủ nghĩa nhân đạo cao cả, chủ nghĩa nhân văn cách mạng sáng ngời lý tưởng cộng sản. Đây cũng là bản chất của nền tư pháp, được khởi nguồn từ những ngày đầu thành lập theo tư tưởng của Bác.
Ngay từ đầu, trong những năm đầu của chính quyền nhân dân, dân chủ cộng hòa, trong điều kiện khi cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp đang lan rộng, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đứng đầu Nhà nước, đang chỉ đạo, lãnh đạo công cuộc kháng chiến kiến quốc; nhưng vẫn dành cho công tác tư pháp, hoạt động tư pháp sự quan tâm sâu sắc.
Tại bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị học tập của cán bộ ngành tư pháp 1950, Người xác định: “Tư pháp là một cơ quan trọng yếu của chính quyền góp phần thực hiện chế độ pháp trị, giữ vững và bảo vệ quyền lợi của nhân dân, bảo vệ chế độ dân chủ của ta. Vấn đề tư pháp là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người là phải yêu nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức. Phải tăng cường luật pháp dân chủ, cố gắng làm cho luật pháp dân chủ ngày càng nhiều hơn, tốt hơn. Bác căn dặn cán bộ tư pháp “Phải gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân. Giúp dân, học dân để giúp mình thêm liêm khiết, thêm công bằng. Thêm nữa là phải luôn luôn cố gắng học tập lý luận, học tập đường lối chính sách của Chính phủ …”. Người nhấn mạnh đến vai trò, ý nghĩa của pháp luật:“… Pháp luật của ta hiện nay bảo vệ quyền lợi cho hàng triệu người lao động…Pháp luật của ta là pháp luật thật sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động....”.
Người hết sức quan tâm tới việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, làm cơ sở để mọi người dân và cán bộ tôn trọng, thực hiện. Trong suốt thời gian giữ cương vị Chủ tịch nước, Người đã hai lần đứng đầu Uỷ ban soạn thảo Hiến pháp năm 1946 và năm 1959; đã ký lệnh Công bố 16 luật, 613 sắc lệnh và nhiều văn bản dưới luật khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người có công lớn nhất trong sự nghiệp lập hiến và lập pháp. Nhưng, điều quan trọng hơn là Người tập trung chỉ đạo đưa pháp luật vào cuộc sống, làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế, tạo cơ chế bảo đảm cho pháp luật được thi hành.
“Xét xử đúng là tốt, nhưng nếu không phải xét xử thì càng tốt hơn”
Hồ Chủ tịch coi việc xây dựng hệ thống các cơ quan tư pháp là cơ sở để xã hội phát triển. Người từng nói: Tư pháp có tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt người dân mới có được hệ thống pháp luật bảo vệ, có được ánh sáng của Đảng dìu dắt.
Biết công tác tư pháp quan hệ nhiều với nhiệm vụ phòng chống tội phạm, xét xử những kẻ phạm pháp, làm trái pháp luật, Bác chia sẻ điều trăn trở: “Xét xử đúng là tốt, nhưng nếu không phải xét xử thì càng tốt hơn”. Bác nhắc nhở: “Trong công tác xét xử, phải công bằng, liêm khiết, trong sạch. Như thế cũng chưa đủ. Không thể chỉ hạn chế hoạt động của mình trong khung tòa án. Phải gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân. Giúp dân, học dân để giúp mình thêm liêm khiết, thêm công bằng. Thêm nữa là các chú phải luôn luôn cố gắng học tập…”.
Với những quan điểm đó, ngày 22/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 85 về cải cách bộ máy tư pháp, xây dựng nên những nguyên tắc tiến bộ đầu tiên cho nền tư pháp non trẻ của nước ta. Sau hòa bình lập lại, ngày 22/3/1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến dự và nói chuyện với Hội nghị Tư pháp toàn quốc lần thứ 10. Bác nói: Cần thực hiện đúng đắn nền pháp chế XHCN của nước ta, bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, quyền lợi của nhân dân; đồng thời phải ngăn ngừa, trừng trị những kẻ âm mưu phá hoại chế độ, phá hoại lợi ích của nhân dân, phá hoại công cuộc đấu tranh thống nhất Tổ quốc... Hồ Chủ tịch căn dặn: Các cơ quan tư pháp cần phối hợp chặt chẽ với nhau và phối hợp với các cơ quan chính quyền để hoàn thành nhiệm vụ của Đảng và nhân dân giao cho.
Trên cơ sở hiểu rõ đặc trưng, nhiệm vụ đặc thù của đội ngũ cán bộ tư pháp, Người khẳng định: “Tư pháp là cơ quan trọng yếu của chính quyền". Bác dặn dò: Tư cách đạo đức của cán bộ được đo bằng sự tin yêu, quý mến của người dân. Với riêng cán bộ tư pháp phải lấy công việc phụng sự nhân dân làm lẽ sống, làm mục tiêu phấn đấu, đặt lợi ích của nhân dân, của dân tộc lên trên hết, phải tuân thủ pháp luật, giữ gìn và bảo vệ pháp luật. Trong thư gửi Hội nghị công tác tư pháp tháng 02 năm 1948, Người viết: “cán bộ tư pháp phải tuyệt đối trung thành”, “các bạn là những người phụ trách thi hành luật pháp, lẽ tất nhiên các bạn phải nêu cao tấm gương “phụng công thủ pháp, chí công vô tư” cho nhân dân noi theo”.
Đối với người cán bộ tư pháp, Người không chỉ đòi hỏi phải chí công vô tư mà còn phải biết phụng công, thủ pháp. Cán bộ tư pháp là những người phụ trách thi hành pháp luật, nên lẽ dĩ nhiên, phải hết lòng vì cái chung, vì nhân dân mà bảo vệ pháp luật, bảo đảm sự công bằng, công minh trong việc áp dụng pháp luật với tinh thần cao nhất. Phụng công thủ pháp, chí công, vô tư là những tiêu chuẩn làm nên bản chất mới của cán bộ tư pháp, suy rộng ra là của cả nền tư pháp mới.
Trải qua quá trình lịch sử, Toà án cách mạng Việt Nam đã được hình thành và không ngừng lớn mạnh gắn liền với công lao của Hồ Chủ tịch. Người đã trực tiếp ban hành các Sắc lệnh và chủ trì soạn thảo các bản Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 làm cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của tòa án Việt Nam. Những tư tưởng tiến bộ của Hồ Chí Minh về một nền tư pháp hiện đại đã được quán triệt trong việc thiết lập hệ thống tòa án cách mạng Việt Nam. Hiệu quả hoạt động của Tòa án trong suốt quá trình cách mạng đã chứng minh giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về hệ thống tòa án. Trong giai đoạn đổi mới hệ thống Tòa án Việt Nam hiện nay, tư tưởng Hồ Chí Minh về tư pháp nói chung và Tòa án nói riêng lại càng có giá trị, là kim chỉ nam dẫn đường để công cuộc cải cách tư pháp của đất nước ta đạt được nhiều thành tựu mới.