Cần lưu ý gì khi thừa kế đất đai tài sản chung?
Bất động sản - Ngày đăng : 16:19, 28/03/2021
Vậy khi vợ hoặc chồng mất, di sản sẽ được phân chia như thế nào? Dưới đây là những tư vấn cụ thể, về quyền thừa kế, do đội ngũ Luật sư của Công ty TNHH Luật DFC (luatsudfc.vn) tư vấn.
Quyền thừa kế đất đai tài sản chung khi vợ hoặc chồng mất
Theo quy định tại Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 thì quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng khi thuộc một trong các trường hợp sau:
Quyền sử dụng đất được vợ chồng tạo lập trong thời hôn nhân.
Quyền sử đất là tài sản riêng của vợ hoặc chồng có trước khi kết hôn nhưng có sự thỏa thuận bằng văn bản có công chứng, chứng thực của vợ chồng xác lập vào khối tài sản chung.
Quyền sử dụng đất có nguồn gốc là tài sản được thừa kế chung hoặc tặng cho chung.
Nếu thuộc một trong những trường hợp là tài sản chung của vợ chồng như đã nêu ở trên, khi một trong hai bên vợ chồng chết thì tài sản sẽ được chia như sau:
Trường hợp người có quyền sử dụng đất là vợ hoặc chồng chết có để lại di chúc: nếu có di chúc sẽ ưu tiên chia tài sản theo di chúc phần tài sản của người mất trong quyền sử dụng đất chung ấy.
Do đó, nếu người để lại di sản thừa kế chỉ định chồng hoặc vợ của họ trong di chúc hưởng thừa kế thì họ sẽ được hưởng.
Trường hợp không được chỉ định trong di chúc, sau khi đã chia hết phần di sản theo di chúc mà vẫn còn nội dung di sản thừa kế thực tế chưa phân chia thì sẽ chia theo pháp luật, khi đó họ được hưởng di sản thừa kế theo quy định tại Điều 642 Bộ luật Dân sự năm 2015 (hai phần ba một suất thừa kế theo quy định của pháp luật);
Trường hợp người có quyền sử dụng đất là vợ hoặc chồng chết không để lại di chúc: trường hợp người để lại di sản thừa kế chết không để lại di chúc, di sản thừa kế của họ sẽ được chia theo quy định của pháp luật.
Người vợ hoặc chồng còn sống của họ sẽ được hưởng di sản thừa kế theo quy định tại Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015 (thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người để lại di sản thừa kế).
Quyền thừa kế đất đai là tài sản riêng khi vợ hoặc chồng mất
Theo quy định tại Điều 43 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 thì quyền sử dụng đất là tài sản riêng của vợ chồng khi thuộc một trong các trường hợp sau:
Quyền sử dụng đất là tài sản riêng của vợ hoặc chồng trước khi kết hôn mà không có thỏa thuận sáp nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung;
Quyền sử dụng đất là tài sản được thừa kế riêng, tặng cho riêng vợ hoặc chồng trong thời kỳ hôn nhân;
Quyền sử dụng đất là tài sản chung nhưng đã được chia trong thời kỳ hôn nhân;
Quyền sử dụng đất là có nguồn gốc hình thành (có căn cứ chứng minh) từ tài sản riêng của vợ hoặc chồng.
Nếu thuộc một trong những trường hợp là tài sản riêng của vợ chồng như đã nêu ở trên, khi một trong hai bên vợ chồng chết thì tài sản sẽ được chia như sau:
Trường hợp người có quyền sử dụng đất là vợ hoặc chồng chết có để lại di chúc: '
Nếu có di chúc sẽ ưu tiên chia tài sản theo di chúc trước. Do đó nếu người để lại di sản thừa kế chỉ định chồng hoặc vợ của họ trong di chúc hưởng thừa kế thì họ sẽ được hưởng.
Trường hợp không được chỉ định trong di chúc, sau khi đã chia hết phần di sản theo di chúc mà vẫn còn nội dung di sản thừa kế thực tế chưa phân chia thì sẽ chia theo pháp luật, khi đó họ được hưởng di sản thừa kế theo quy định tại Điều 642 Bộ luật Dân sự năm 2015 (hai phần ba một suất thừa kế theo quy định của pháp luật).
Trường hợp người có di sản thừa kế là vợ hoặc chồng chết không để lại di chúc:
Trường hợp người để lại di sản thừa kế chết không để lại di chúc, di sản thừa kế của họ sẽ được chia theo quy định của pháp luật.
Người vợ hoặc chồng còn sống của họ sẽ được hưởng di sản thừa kế theo quy định tại Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015 (thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người để lại di sản thừa kế).
Lưu ý: Theo quy định tại Điều 655 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì chúng ta cần lưu ý một số trường hợp sau:
Trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung là quyền sử dụng đất khi hôn nhân còn tồn tại mà sau đó một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản.
Trường hợp vợ, chồng xin ly hôn mà chưa được hoặc đã được Tòa án cho ly hôn bằng bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật, nếu một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản.
Trường hợp đang là vợ hoặc chồng của một người tại thời điểm người đó chết thì dù sau đó đã kết hôn với người khác vẫn được thừa kế di sản.