19 bị can trong sai phạm tại dự án Công ty Gang thép Thái Nguyên gây thiệt hại 830 tỷ đồng
Hồ sơ vụ án - Ngày đăng : 19:31, 06/02/2021
VKSNDTC vừa ban hành cáo trạng truy tố 19 bị can trong vụ án “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí” và “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 2, Công ty CP Gang thép Thái Nguyên (TISCO) và một số đơn vị có liên quan.
Các bị can bị truy tố về tội “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí” gồm: Mai Văn Tinh, cựu Chủ tịch HĐQT Tổng công ty Thép Việt Nam (VNS); Đậu Văn Hùng, cựu Tổng giám đốc VNS; Trần Trọng Mừng, cựu Tổng giám đốc TISCO; Trần Văn Khâm, cựu Chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc TISCO; Ngô Sỹ Hán, cựu Phó Tổng giám đốc, Trưởng ban Quản lý dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 2 - TISCO…
5 bị can bị truy tố tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, theo khoản 3, Điều 360 Bộ luật Hình sự 2015 gồm: Lê Phú Hưng (nguyên thành viên HĐQT Tổng Công ty gang thép Việt Nam), và các bị can nguyên thành viên HĐQT Tổng Công ty Thép Việt Nam: Nguyễn Minh Xuân, Nguyễn Chí Dũng, Hoàng Ngọc Diệp, Đoàn Thu Trang.
Theo cáo trạng, dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 2 do TISCO làm chủ đầu tư được triển khai từ năm 2007 với tổng mức đầu tư dự kiến 3.843 tỉ đồng.
Đơn vị trúng thầu là Tập đoàn Khoa học công nghệ và thương mại luyện kim Trung Quốc (MCC).
Tháng 7/2007, Trần Trọng Mừng, Tổng giám đốc TISCO đã ký hợp đồng EPC số 01# với đại diện của MCC. Giá trị hợp đồng hơn 160 triệu USD, là giá trọn gói không thay đổi trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng. Thời gian thực hiện hợp đồng được ấn định là 30 tháng.
Đến tháng 8/2008, sau hơn 11 tháng khởi công xây dựng, MCC tự ý dừng hợp đồng, rút hết người về nước trong khi chưa hoàn thành thiết kế chi tiết các hạng mục, chưa lựa chọn và ký được hợp đồng với nhà thầu phụ, chưa triển khai thi công bất kỳ hạng mục nào của gói thầu nhưng lại có nhiều văn bản gửi TISCO đề nghị kéo dài thời gian thực hiện hợp đồng.
Hợp đồng EPC số 01# là hợp đồng trọn gói, không được phép điều chỉnh giá trong suốt quá trình thực hiện. MCC chịu trách nhiệm lựa chọn, ký hợp đồng và trực tiếp thanh toán cho nhà thầu phụ.
Tuy nhiên, sau hơn 11 tháng kể từ khi hợp đồng có hiệu lực thực hiện, MCC chưa lựa chọn và ký được hợp đồng với nhà thầu phụ; chưa hoàn thành thiết kế chi tiết các hạng mục, không đặt hàng chế tạo máy móc thiết bị, không triển khai thi công các hạng mục của gói thầu.
MCC rút hết người về nước và nhiều lần đề nghị kéo dài thời gian thực hiện hợp đồng và tăng giá hợp đồng không có căn cứ, không phù hợp quy định của pháp luật, không đúng với nội dung các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng.
Cáo trạng cho rằng, với chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, bị can Trần Trọng Mừng, bị can Mai Văn Tinh đã không xem xét, chỉ đạo dừng, chấm dứt hợp đồng, thu hồi tiền tạm ứng, áp dụng điều khoản phạt hợp đồng, báo cáo người có thẩm quyền xem xét để hủy đấu thầu và tổ chức đấu thầu lại theo quy định để đảm bảo hiệu quả và tiến độ của Dự án, mà lại chỉ đạo thực hiện các hành vi phạm pháp luật về đầu tư, vi phạm Hợp đồng EPC số 01# để tiếp tục thực hiện Hợp đồng, cùng với các bị can Trần Văn Khâm, Đậu Văn Hùng chỉ đạo các cá nhân có liên quan thuộc TISCO và VNS, tổ chức, thực hiện việc điều chỉnh dự toán chi phí phần C.
Tham gia ký hợp đồng thầu phụ thực hiện phần C của Hợp đồng EPC số 01# theo hình thức hợp đồng theo đơn giá, TISCO trực tiếp nghiệm thu, thanh toán cho nhà thầu phụ thực hiện phần C, tự chịu mọi rủi ro, đã làm phá vỡ nguyên tắc thực hiện hợp đồng theo hình thức trọn gói của Hợp đồng EPC số 01#, khi nhà thầu phụ không hoàn thành phần C thì không ràng buộc được trách nhiệm của MCC, tạo điều kiện để MCC có lý do chối bỏ trách nhiệm thực hiện Hợp đồng EPC số 01#; chấp thuận không có căn cứ VINAINCON làm nhà thầu phụ thực hiện phần C của Hợp đồng EPC số 01# trong khi VINAINCON không đủ năng lực để thực hiện, là vi phạm khoản 17, 31 Điều 4, Điều 49 Luật Đấu thầu năm 2005; khoản 1 Điều 7; Điều 11; khoản 1 Điều 21 Nghị định số 99/2007/NĐ-CP; điểm 7.6.1, điểm 7.9.1. Thông tư số 06/2007/TT- BXD của Bộ Xây dựng, vi phạm quy định của Hợp đồng EPC số 01#.
Các vi phạm này chính là nguyên nhân dẫn đến dự án chậm tiến độ, làm phát sinh tăng lãi vay, tăng chi phí đầu tư, gây thất thoát, lãng phí đặc biệt nghiêm trọng tài sản Nhà nước.
Các bị can Đặng Thúc Kháng, Nguyễn Trọng Khôi, Ngô Sỹ Hán, Đặng Văn Tập, Đồng Quang Dương, Trịnh Khôi Nguyên, Nguyễn Văn Tráng, Đỗ Xuân Hòa, Uông Sỹ Bính và Lê Thị Tuyết Lan đã có hành vi đồng phạm các vi phạm nêu trên.
Các bị can Lê Phú Hưng, Nguyễn Minh Xuân đã không thực hiện hết trách nhiệm của thành viên HĐQT VNS khi cho ý kiến nhất trí với Tờ trình số 835/TTr-VNS ngày 23/6/2009 của Tổng Giám đốc đề nghị HĐQT VNS báo cáo Bộ Công Thương và Chính phủ chấp thuận cho điều chỉnh chi phí thực hiện phần C, nhà thầu phụ VINAINCON được thực hiện phần C dưới hình thức hợp đồng theo đơn giá không có căn cứ.
Các bị can Nguyễn Chí Dũng, Hoàng Ngọc Diệp, Đoàn Thu Trang đã không thực hiện hết trách nhiệm của thành viên HĐQT TISCO khi cho ý kiến nhất trí với Tờ trình số 405/TTr-GTTN ngày 4/11/2009 của Tổng Giám đốc đề nghị HĐQT TISCO phê duyệt điều chỉnh cơ cấu tổng mức đầu tư dự án, trong đó có dự phòng cho phần C là 15,57 triệu USD không có căn cứ.
Hành vi nêu trên của các bị can đã gây hậu quả thất thoát, lãng phí tài sản Nhà nước hơn 830 tỉ đồng.