Đề xuất nhiệm kỳ Thẩm phán suốt đời
Tiêu điểm - Ngày đăng : 17:43, 16/12/2020
Quy định nhiệm kỳ tuy đã có đổi mới nhưng vẫn cần được cân nhắc thêm vì chưa tạo tâm lý yên tâm công tác cho các Thẩm phán. Trong khi đó, thời gian thực hiện quy trình bổ nhiệm lại tương đối dài.
Do vậy, dự thảo báo cáo đánh giá 5 năm thi hành Luật Tổ chức TAND 2014 đã đề nghị sửa đổi Điều 74 theo hướng bổ nhiệm không có nhiệm kỳ (bổ nhiệm suốt đời) nhằm tạo điều kiện cho Thẩm phán trau dồi kinh nghiệm, kỹ năng xét xử. Đối với những Thẩm phán không đủ điều kiện thì đã có quy định về cách chức Thẩm phán theo quy định tại Điều 82 của Luật.
Tham luận tại hội thảo, đại diện TAND TP Hà Nội cho rằng quy định hiện hành chưa hợp lý, ít nhiều tạo tâm lý không yên tâm làm việc của Thẩm phán, ngoài ra phải thực hiện nhiều lần quy trình bổ nhiệm lại gây mất thời gian. Thực tiễn có tình trạng nhiều Thẩm phán hết nhiệm kỳ nhưng chưa được bổ nhiệm lại.
Một trong những vấn đề bất cập khác có liên quan đến nhiệm kỳ của Thẩm phán nữa, đó là: đối với Chánh án, Phó Chánh án khi đã hết nhiệm kỳ Thẩm phán (có thể đang được xem xét bổ nhiệm lại hoặc phải tạm dừng một thời gian) mà vẫn còn nhiệm kỳ Chánh án, Phó Chánh án thì cách giải quyết đối với trường hợp này như thế nào (có được tiếp tục điều hành Toà án? có được ký những văn bản về tố tụng hay chỉ ký những văn bản hành chính).
Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế TANDTC Ngô Thị Nhàn đồng tình với đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán suốt đời nhưng cần có lộ trình thực hiện. Trước hết có thể áp dụng với đối tượng là Thẩm phán TANDTC do Quốc hội phê chuẩn, Chủ tịch nước bổ nhiệm.
Theo bà Nhàn, Thẩm phán TANDTC là ngạch Thẩm phán đặc biệt với những tiêu chuẩn, điều kiện để được bổ nhiệm rất cao. Để có được các tiêu chuẩn, điều kiện này, họ phải trải qua một quá trình công tác lâu dài, năng lực và uy tín đã được thể hiện, ghi nhận qua vài chục năm công tác và là những người tuổi đã cao.
Trong khi Luật 2014 quy định nhiệm kỳ của Thẩm phán TANDTC cũng giống như nhiệm kỳ của Thẩm phán sơ cấp, trung cấp, cao cấp là chưa phù hợp, chưa phản ánh được vị trí pháp lý đặc biệt của Thẩm phán TANDTC. Do vậy, đề nghị Quốc hội cho phép kéo dài nhiệm kỳ của Thẩm phán TANDTC theo hướng được bổ nhiệm không thời hạn cho đến khi nghỉ hưu hoặc chuyển công tác khác.
Về điều kiện bổ nhiệm Thẩm phán TANDTC, Điều 69 Luật 2014 quy định đối với người trong hệ thống Tòa án phải: “Đã là Thẩm phán cao cấp từ đủ 05 năm trở lên”.
Theo đại diện TAND TP Hà Nội, quy định này đã thu hẹp nguồn bổ nhiệm Thẩm phán TANDTC từ các TAND cấp tỉnh. Bởi vì, theo quy định hiện nay, chỉ có Chánh án và 01 Phó Chánh án (đối với Hà Nội và TP Hồ Chí Minh) TAND cấp tỉnh thì mới được cơ cấu Thẩm phán cao cấp.
Đồng thời, để được bổ nhiệm Thẩm phán TANDTC, Chánh án, Phó Chánh án TAND cấp tỉnh phải trải qua ít nhất 5 năm làm Thẩm phán cao cấp là quá dài, không cần thiết. Bởi vì, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án cấp tỉnh đều là những Thẩm phán có nhiều kinh nghiệm xét xử, tổ chức công tác xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền Tòa án.
Tuy nhiên, trái ngược với quan điểm bổ nhiệm Thẩm phán suốt đời, có ý kiến cho rằng như quy định hiện hành là phù hợp.
Tại hội thảo, Chánh án TAND tỉnh Lạng Sơn Nguyễn Thế Lệ cho biết, ông đã 9 năm làm Chánh án tỉnh nên thấu hiểu vấn đề mà hội thảo đưa ra. Ông không đồng tình với đề xuất bổ nhiệm Thẩm phán suốt đời. Bởi vì, Thẩm phán có rất nhiều quyền lực nên phải có cơ chế 5 năm, 10 năm để tránh việc có quyền lực suốt đời.
Theo ông Lệ, để Thẩm phán đủ vững vàng về tư tưởng chính trị và bản lĩnh trước tác động về vật chất hay quyền lực cần phải tiếp cận thông tin thời sự, chính trị, kinh tế xã hội và nắm bắt vấn đề để bổ trợ cho công tác chuyên môn. Vấn đề này hiện nay còn hạn chế. Tòa án cứ quanh quẩn hồ sơ, điều nọ điều kia nhưng nhiều việc kiến thức về chính trị, kinh tế, hành chính rất ít…
Khi bổ nhiệm thì Thẩm phán nên qua lớp bồi dưỡng về kinh tế, hành chính để có nhãn quan về địa chính trị của một tỉnh, một địa phương. Ngoài ra, thể lực cũng cần phải là một trong những tiêu chí khi tuyển chọn Thẩm phán.
Tại hội thảo, bà Sitara Syed, Phó Đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam nhấn mạnh: Độc lập của Thẩm phán là một trong những yếu tố rất quan trọng. Đó là các nguyên tắc cơ bản của Liên hợp quốc về tính độc lập của Toà án năm 1985 và Tuyên bố Bắc Kinh về tính độc lập tư pháp của Hiệp hội Luật châu Á - Thái Bình Dương năm 1997.
Các nguyên tắc này đưa ra các nội dung thiết yếu về tính độc lập tư pháp, gồm: Độc lập về thể chế, trong xét xử và độc lập về tài chính của Toà án. Nếu thiếu các nội dung này, Tòa án không thể thực hiện quyền tư pháp của mình một cách độc lập và công bằng.
Cơ quan tư pháp chỉ có thể độc lập khi Tòa án hoạt động như một thể chế riêng và các Thẩm phán cũng hoàn toàn độc lập.