Giải trình tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Luật Tổ chức TAND (sửa đổi)
Chính trị - Ngày đăng : 15:25, 27/10/2014
Trước đó, tại kỳ họp thứ 7, các ĐBQH đã thảo luận, cho ý kiến về dự án Luật Tổ chức TAND (sửa đổi). Sau kỳ họp, UBTVQH đã chỉ đạo Thường trực Ủy ban Tư pháp phối hợp với cơ quan chủ trì soạn thảo và các cơ quan hữu quan tổ chức nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý, hoàn thiện một bước Dự thảo Luật. Trên cơ sở ý kiến đóng góp của các ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo tiếp thu, chỉnh lý, hoàn thiện Dự thảo Luật để trình Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp này.
Ông Nguyễn Văn Hiện, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội trình bày Báo cáo giải trình tiếp thu
TAND gồm 4 cấp, giữ nguyên mô hình TAND cấp huyện
Theo đó, Báo cáo nêu rõ, đa số ý kiến cơ bản tán thành với quy định tại khoản 2 Điều 2 của Dự thảo Luật trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 7 về nội dung “Tòa án thực hiện quyền tư pháp”.
Về tổ chức TAND sơ thẩm trong hệ thống TAND (Điều 3), UBTVQH nhận thấy, từ nhiều năm nay, các cơ quan có trách nhiệm ở nước ta đã triển khai thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị, trong đó đã nghiên cứu đề xuất mô hình tổ chức các Tòa án. TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là TAND cấp huyện) đã được tăng cường hơn về cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ, tăng thẩm quyền giải quyết hầu hết các loại vụ việc, cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Thực tiễn tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện cho thấy việc tiếp tục giữ mô hình tổ chức TANND cấp huyện như hiện nay bảo đảm sự ổn định, thuận lợi cho người dân khi có công việc cần giải quyết tại Tòa án; đồng thời không làm phát sinh nhu cầu lớn về đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất như phương án thành lập TAND sơ thẩm khu vực. Vì vậy, tiếp thu ý kiến của nhiều ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo chỉnh lý Dự thảo Luật theo hướng giữ nguyên mô hình tổ chức TAND cấp huyện như quy định của Luật hiện hành.
Như vậy, hệ thống tổ chức TAND gồm có TANDTC, TAND cấp cao, TAND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương và các Tòa án quân sự như thể hiện tại Điều 3 của dự thảo Luật.
Về cơ chế quản lý Tòa án về tổ chức (Điều 18) dự thảo Luật, UBTVQH tán thành với ý kiến của đa số ĐBQH tiếp tục giao TANDTC quản lý các TAND, phối hợp với Bộ Quốc phòng quản lý các Tòa án quân sự về tổ chức.
UBTVQH nhấn mạnh, việc thành lập Hội đồng tư pháp Quốc gia để quản lý Tòa án về tổ chức là vấn đề mới, chưa được nghiên cứu kỹ, chúng ta chưa có thực tiễn về tổ chức và vận hành cơ chế này. Vì vậy, UBTVQH đề nghị tiếp tục giao TANDTC quản lý các Tòa án về tổ chức, nhưng có bổ sung trong dự thảo luật, quy định cụ thể để tách bạch hoạt động quản lý về tổ chức với hoạt động xét xử nhằm bảo đảm việc quản lý không ảnh hưởng đến tính độc lập xét xử của Tòa án các cấp.
Nhiệm vụ phát triển án lệ của TANDTC (điểm c khoản 2 Điều 22) cũng được UBTVQH cho rằng: Chủ trương nghiên cứu phát triển án lệ đã được nêu trong Nghị quyết số 48-NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị. Ở nước ta, án lệ không phải là nguồn luật. Ngoài các quyết định giám đốc thẩm có tính chuẩn mực của Hội đồng Thẩm phán TANDTC thì Hội đồng Thẩm phán TANDTC còn có thể lựa chọn các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của các Tòa án khác để tổng kết phát triển thành án lệ cho các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử, bảo đảm việc áp dụng thống nhất pháp luật.
Về hiệu lực Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán TANDTC (khoản 4 Điều 22), UBTVQH khẳng định: Khoản 1 Điều 104 của Hiến pháp năm 2013 quy định “TANDTC là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Do đó, quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng thẩm phán TANDTC là quyết định cao nhất. Trong trường hợp có căn cứ xác định quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán TANDTC có vi phạm pháp luật hoặc phát hiện tình tiết quan trọng mới thì quyết định này vẫn có thể được xem xét lại theo thủ tục đặc biệt quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự và Luật tố tụng hành chính nhằm thực hiện nguyên tắc của Hiến pháp năm 2013 “Bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền cơ bản của công dân...”. Tuy nhiên, quyết định cuối cùng trong trường hợp xem xét lại theo thủ tục đặc biệt vẫn là quyết định của Hội đồng thẩm phán TANDTC. Do đó, khoản 4 Điều 22 dự thảo Luật quy định “Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán TANDTC là quyết định cao nhất, không bị kháng nghị” là bảo đảm phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013 và thống nhất với quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính hiện hành.
TAND cấp huyện có thể có Tòa chuyên trách
Đề cập đến việc thành lập Tòa giản lược trong cơ cấu tổ chức TAND (Điều 44), UBTVQH cho rằng, do không tổ chức TAND sơ thẩm khu vực mà vẫn tiếp tục giữ nguyên tổ chức của TAND cấp huyện như hiện hành. Do đó, về nguyên tắc TAND cấp huyện không phân chia thành các Tòa chuyên trách như đã thể hiện tại Điều 33 dự thảo Luật trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 7. Tuy nhiên, xuất phát từ nhu cầu phát triển của đất nước, xu hướng chuyên môn hóa trong tổ chức và hoạt động của Tòa án, đề nghị Quốc hội xem xét cho phép quy định theo hướng mở, đó là: TAND cấp huyện có thể có các Tòa chuyên trách như: Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa gia đình và người chưa thành niên, Tòa xử lý hành chính. Căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ xét xử, Chánh án TANDTC quyết định thành lập Tòa chuyên trách nêu trên tại mỗi TAND cấp huyện. Việc thành lập Tòa chuyên trách khác tại TAND cấp huyện do UBTVQH quyết định theo đề nghị của Chánh án TANDTC như thể hiện tại Điều 44 của dự thảo Luật.
Thẩm quyền của Tòa án quân sự (Điều 48), UBTVQH cho rằng, cần phải luật hóa định hướng Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị: “Nghiên cứu, xác định hợp lý phạm vi thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự theo hướng chủ yếu xét xử những vụ án về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, những vụ án liên quan đến bí mật quân sự...”. Hiện nay, các cơ quan có thẩm quyền đang nghiên cứu, đề xuất giải pháp xử lý vấn đề này. Vì vậy, UBTVQH đề nghị trong Luật này chỉ nên quy định chung như phương án 1 nêu trên của dự thảo Luật. Còn thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự đối với các loại vụ án, đối tượng phạm tội cụ thể sẽ được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự dự kiến được Quốc hội xem xét, sửa đổi, bổ sung trong thời gian tới.
UBTVQH tán thành với ý kiến của đa số ĐBQH, quy định trong dự thảo Luật có 4 ngạch Thẩm phán (Điều 63 - gồm có Thẩm phán TANDTC, Thẩm phán cao cấp, Thẩm phán trung cấp và Thẩm phán sơ cấp) là phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành về cán bộ, công chức và các ngạch công chức, phù hợp với cơ chế tuyển chọn khi được bổ nhiệm lần đầu hoặc bổ nhiệm vào ngạch Thẩm phán cao hơn và tổ chức Tòa án nhân dân 4 cấp. Đồng thời, bảo đảm phân hóa đội ngũ Thẩm phán một cách rõ ràng về tiêu chuẩn, trình độ chuyên môn, năng lực nghiệp vụ và kinh nghiệm công tác. Thẩm phán giữ ngạch càng cao thì tiêu chuẩn càng phải cao.
UBTVQH cũng tán thành với ý kiến của nhiều ĐBQH về việc quy định cơ chế tuyển chọn và thi tuyển nguồn Thẩm phán (các điều 64, 65, 66 và 67) để thể chế hóa Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị: “nghiên cứu thực hiện cơ chế thi tuyển để chọn người bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp” và kế thừa quy định của Luật tổ chức TAND năm 2002 về tuyển chọn Thẩm phán thông qua Hội đồng tuyển chọn. Nội dung này được quy định tại Điều 67 của dự thảo Luật, theo đó Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia có nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức kỳ thi tuyển chọn nguồn Thẩm phán; xem xét tuyển chọn người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện để đề nghị bổ nhiệm làm Thẩm phán.
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, ngoài các tiêu chuẩn Thẩm phán quy định trong dự thảo Luật đã trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 7, Điều 64 của dự thảo Luật đã được chỉnh lý bổ sung thêm khoản 6 quy định tiêu chuẩn Thẩm phán “Đã trúng tuyển kỳ thi tuyển chọn nguồn Thẩm phán”.
Đối với điều kiện bổ nhiệm Thẩm phán, dự thảo Luật đã được chỉnh lý bổ sung thêm điều kiện về năng lực của Thẩm phán xét xử các vụ án và giải quyết các vụ việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án theo quy định của pháp luật. Bảo đảm yêu cầu Thẩm phán được bổ nhiệm vào ngạch cao hơn phải có trình độ, năng lực cao hơn như thể hiện tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 65 của dự thảo Luật. Tuy nhiên, trong trường hợp đặc biệt do nhu cầu cán bộ của TAND thì một số đối tượng khác tuy chưa là Thẩm phán Tòa án quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 65 nhưng có thời gian công tác pháp luật, có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án theo quy định của pháp luật thì có thể được đề nghị tuyển chọn bổ nhiệm Thẩm phán trung cấp, cao cấp. Để bảo đảm chất lượng Thẩm phán khi được bổ nhiệm từ những đối tượng này, các khoản 2 và 3 Điều 65 dự thảo Luật đã chỉnh lý theo hướng tăng thời gian công tác pháp luật so với quy định của dự thảo Luật trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 7.
Thẩm phán TANDTC phải là những chuyên gia đầu ngành về pháp luật
Đối với Thẩm phán TANDTC, dự thảo luật cần quy định điều kiện để bổ nhiệm nhằm cụ thể hóa tiêu chí “là những chuyên gia đầu ngành về pháp luật, có kinh nghiệm xét xử và có uy tín cao trong xã hội” theo Kết luận số 79 – KL/TW của Bộ Chính trị. Quy định tiêu chuẩn bổ nhiệm Thẩm phán TANDTC tại khoản 4 Điều 53 dự thảo Luật trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 7 “Người làm Thẩm phán cao cấp từ đủ 5 năm trở lên và đang giữ chức vụ Chánh án, Phó Chánh án TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trở lên…” là chưa phù hợp, chưa bao quát hết nguồn Thẩm phán TANDTC. Vì thực tiễn cho thấy nhiều Thẩm phán không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý (Chánh án, Phó Chánh án Tòa án cấp tỉnh) nhưng có uy tín, có năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, có nhiều kinh nghiệm thực tiễn xét xử có đủ điều kiện để đảm nhiệm chức vụ Thẩm phán ở ngạch cao hơn.
Tiếp thu ý kiến của nhiều ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo chỉnh lý lại khoản 4 Điều 63 như thể hiện tại dự thảo Luật.
Về thủ tục giới thiệu, phê chuẩn, bổ nhiệm Thẩm phán TANDTC, UBTVQH nhận thấy, thủ tục giới thiệu, phê chuẩn, bổ nhiệm Thẩm phán TANDTC đã được quy định tại Nghị quyết số 719/2014/UBTVQH13 ngày 6/1/2014 của UBTVQH hướng dẫn thực hiện khoản 2 Điều 2 của Nghị quyết số 64/2013/NQ-QH13 của Quốc hội quy định một số điểm thi hành Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam “Chánh án TANDTC trình Quốc hội phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán TANDTC theo đề nghị của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán TANDTC”. Tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH đề nghị luật hóa quy định nêu trên để bổ sung quy định Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia có thẩm quyền tuyển chọn, giới thiệu người đủ điều kiện, tiêu chuẩn do Chánh án TANDTC đề nghị để Chánh án TANDTC trình Quốc hội phê chuẩn việc đề nghị bổ nhiệm, Chủ tịch nước bổ nhiệm Thẩm phán TANDTC. Đồng thời bảo đảm nguyên tắc bình đẳng trong việc tuyển chọn và giới thiệu giữa các Thẩm phán Tòa án các cấp. Vì Thẩm phán TANDTC cũng như các Thẩm phán khác đều là Thẩm phán của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nên đều phải do Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia tuyển chọn, đề nghị. Quy định như vậy không mâu thuẫn với quy định của Đảng về quy trình giới thiệu cán bộ để đề nghị cơ quan có thẩm quyền phê chuẩn, bổ nhiệm. UBTVQH đề nghị chỉnh lý lại như quy định tại Điều 68 của dự thảo Luật.
Giữ quy định nhiệm kỳ của Thẩm phán
UBTVQH cũng cho rằng, tiếp tục giữ quy định về nhiệm kỳ của Thẩm phán là cần thiết, nhằm bảo đảm thận trọng, khách quan trong đánh giá, bổ nhiệm cán bộ, tạo động lực phấn đấu, rèn luyện, nâng cao trình độ, phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm của Thẩm phán trong thực thi công vụ. Tiếp thu ý kiến của đa số ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo chỉnh lý quy định nhiệm kỳ đầu của Thẩm phán là 5 năm, nếu được tái bổ nhiệm thì nhiệm kỳ tiếp theo là 10 năm (không phân biệt đối với Thẩm phán TANDTC và Thẩm phán các Tòa án khác) như thể hiện tại Điều 69 của dự thảo Luật.
Về tuổi nghỉ hưu của Thẩm phán (Điều 69), UBTVQH thấy rằng theo quy định của Luật Cán bộ, công chức thì Thẩm phán các Tòa án cũng là công chức nhà nước. Vì vậy, tiếp thu ý kiến của đa số các ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo chỉnh lý theo hướng không quy định tuổi nghỉ hưu của Thẩm phán trong Dự thảo Luật này. Trường hợp kéo dài tuổi nghỉ hưu của Thẩm phán (nếu có) sẽ được quy định trong văn bản pháp luật khác.
UBTVQH cũng cho rằng, cơ chế TAND quản lý Hội thẩm nhân dân như hiện nay mang tính hình thức, không phù hợp với vị trí, vai trò của Hội thẩm nhân dân theo quy định của Hiến pháp năm 2013. Bên cạnh đó, cơ chế phối hợp trong quản lý Hội thẩm nhân dân giữa TAND, HĐND và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp chưa bảo đảm cho Đoàn Hội thẩm và Hội thẩm nhân dân phát huy vai trò, tác dụng của mình. Để khắc phục bất cập hiện hành cũng như tình trạng “công chức hóa Hội thẩm nhân dân”, phát huy vai trò tự quản, tích cực của Đoàn Hội thẩm, UBTVQH đề nghị không nên quy định TAND, Hội đồng nhân dân hoặc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp quản lý Hội thẩm nhân dân mà nên quy định Hội thẩm được tổ chức thành Đoàn Hội thẩm. Đoàn Hội thẩm quản lý Hội thẩm, được tổ chức và hoạt động theo quy chế do UBTVQH quy định. Tòa án có trách nhiệm bồi dưỡng nghiệp vụ, phân công Hội thẩm tham gia xét xử phù hợp với năng lực của họ. Hội đồng nhân dân và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện giám sát hoạt động của Hội thẩm. Vì vậy, nội dung này được chỉnh lý và thể hiện tại Điều 86 của dự thảo Luật.
Ngoài các nội dung trên, UBTVQH còn tiếp thu nhiều ý kiến khác của các ĐBQH, chỉ đạo rà soát lại toàn bộ các điều khoản của dự thảo Luật; chỉnh lý, bổ sung thêm nhiều điều luật, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của TAND, quy định phân biệt trách nhiệm của Chánh án TAND về luân chuyển và điều động Thẩm phán; quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán, trách nhiệm của Hội thẩm.... Đồng thời, hoàn thiện về kỹ thuật văn bản, sắp xếp lại các điều, khoản trong dự thảo Luật cho hợp lý hơn. Vì thế, dự thảo Luật tổ chức TAND trình Quốc hội khóa XIII, kỳ 8 có 11 Chương, 93 Điều.