Nguyên Đại úy Biên phòng "đạo diễn" phá rừng lĩnh 4 năm tù
Tòa tuyên án - Ngày đăng : 14:10, 08/06/2018
Trong các ngày từ 5, 6, 7 và 8/6/2018, Tòa án Quân sự khu vực 1 (Quân khu V) mở phiên tòa hình sự sơ thẩm xét xử đối với Lê Xuân Chính, nguyên Đại úy, nguyên Đồn phó Đồn Biên phòng Cửa khẩu Nam Giang, kiêm Trạm trưởng Kiểm soát Biên phòng Cửa khẩu Nam Giang cùng 20 bị cáo khác về tội “Vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng”.
Theo cáo trạng của Viện Kiểm sát Quân sự, Lê Xuân Chính, Nguyễn Văn Quang (trú Nam Trà My, Quảng Nam) và Tiêu Hồng Tư- Giám đốc Công ty Cổ phần Minh Hà (trụ sở tại TP. Đà Nẵng), có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nên khoảng đầu năm 2016, Quang đã vào rừng khảo sát, tìm gỗ pơ mu để khai thác. Sau khi tìm thấy vị trí có gỗ pơ mu ở khu vực rừng thuộc khoảnh 5, khoảnh 8, Tiểu khu 351, rừng Phòng hộ thuộc xã La Dêê (huyện Nam Giang, Quảng Nam) Chính, Quang đã thỏa thuận, thống nhất với nhau về giá, tiền công khai thác, vận chuyển.
Các bị cáo tại tòa
Khi nhận được quy cách xẻ gỗ và tiền, Quang đã thuê người từ Quảng Bình vào tiến hành khai thác gỗ trái phép. Khi cưa xẻ, gùi được 26 phách gỗ về cột Mốc 717, Quang, Chính, Tư gọi cho nhau rồi gửi gỗ ở Trạm Hải quan, thì bị Hải quan không cho gửi vì gỗ xẻ không đúng quy định.
Quá trình khai thác, vận chuyển Chính, Quang luôn đốc thúc các bị cáo khác khẩn trương trong việc khai thác, vận chuyển gỗ, hướng dẫn thời gian hoạt động, cung cấp thực phẩm, xăng dầu và liên lạc với Tư trong việc chuyển tiền. Sau khi bị phát hiện, Chính đã điện thoại cho Quang trốn một thời gian, nhưng bị bắt tại TP. HCM. Hậu quả, rừng phòng hộ Nam Sông Bung đã bị khai thác trái phép 37 cây gỗ pơ mu là loại gỗ thuộc nhóm IIA (thực vật rừng quý hiếm, nguy cấp), tổng giá trị thiệt hại được xác định là gần 3 tỉ đồng.
Tại tòa, bị cáo Quang khai, việc khai thác gỗ do bị cáo Chính là người đứng ra tổ chức. Trong quá trình khai thác, Chính cũng thường xuyên gọi điện cho bị cáo đôn đốc, chỉ đạo công việc. Bị cáo quen Chính và Tư từ cuối năm 2015. Đầu tháng 5-2016, bị cáo và một nhóm người đi theo đường công vụ biên phòng, hướng từ cột mốc 717 về hướng cột mốc 716 vào rừng quan sát thì phát hiện khu vực có gỗ pơ mu cách đường công vụ khoảng 20m. Tại đây, bị cáo dùng điện thoại chụp ảnh, quay phim khu rừng này rồi gọi điện báo cho Chính biết thông tin. Sau đó, bị cáo Chính gặp bị cáo tại cửa khẩu Nam Giang để thống nhất trao đổi quy cách chặt gỗ và giá công khai thác gỗ là 8 triệu đồng/m3. Để có kinh phí cho việc khai thác, bị cáo Tư chuyển cho bị cáo 2 lần, mỗi lần 100 triệu đồng qua tài khoản ngân hàng. Sau khi nhận tiền, bị cáo nói với Nguyễn Văn Thắng gọi thêm một nhóm người từ Quảng Bình vào để tiến hành khai thác.
Sau khi biết vụ việc vỡ lở, bị cáo Chính điện thoại cho bị cáo Quang nói anh em vận chuyển rút về quê. Riêng Quang được Chính đề nghị đổi số điện thoại và trốn sang Lào một thời gian. Trong thời gian trốn tại Lào, Quang tiếp tục nhận được điện thoại của Chính yêu cầu phải trốn từ 3-5 năm và trong trường hợp bị bắt thì nhận trách nhiệm, đừng khai ra Chính. Vợ con ở nhà đã có Chính và Tư lo.
Tang vật vụ án
Bị cáo Chính khai nhận mục đích bị cáo khai thác gỗ là để đóng giường, tủ, bàn ghế chứ không có mục đích thương mại. Các bị cáo: Nguyễn Văn Sanh, Lê Trọng Dương, Lê Hồng Diêu, Mai Văn Châu, Mai Văn Cường, Phạm Văn Bồng, Nguyễn Văn Dũng, Hoàng Văn Sử, Nguyễn Văn Tùng, Nguyễn Văn Long, Nguyễn Văn Danh, Cao Văn Hới, Nguyễn Văn Thu, Nguyễn Văn Tiến, Nguyễn Văn Phường, Nguyễn Văn Ngự, Hoàng Văn Luận khẳng định trước Tòa rằng, vì Quang nói khai thác gỗ cho Chính là cán bộ Nhà nước nên mới tham gia mà không biết mình vi phạm.
Sau khi xem xét HĐXX tuyên phạt bị cáo Chính mức án 4 năm tù, bị cáo Quang 42 tháng tù, bị cáo Thắng 36 tháng tù, các bị cáo Dương, Cường, Bồng cùng mức án 32 tháng tù, bị cáo Châu 30 tháng tù, Sanh 28 tháng tù. Các bị cáo Tư, Diêu cùng mức án 25 tháng; Ngự, Danh, Hới, Thu, Phường, Tùng, Tiến, Long, Dũng cùng mức án 25 tháng tù, Sử mức án 20 tháng tù và Luận 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.