Chuyện về một vị tướng hai lần được Bác Hồ tặng súng
Xã hội - Ngày đăng : 13:28, 21/05/2014
Câu thơ của nhà thơ Bế Kiến Quốc đưa chúng tôi về với Trà Khúc, dòng sông từng được nhà thơ Cao Bá Quát đã ví như “lưỡi gươm đầm ánh bạc” khi về thăm Quảng Ngãi.
Sinh ra và lớn lên bên dòng sông ấy, Trung tướng, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Phạm Kiệt - nguyên Tư lệnh Công an nhân dân vũ trang (CANDVT) đã làm rạng danh cho quê hương mình, cho đất nước bằng những cống hiến không ngơi nghỉ.
Bản lĩnh của người cộng sản trẻ
“Thà mình chết, đừng để cho Đảng bị thiệt hại”, nhà lao Buôn Mê Thuột hôm nay như vẫn còn vang lời cảm khái của người tử tù “Tê Đơ - Phạm Kiệt” khi ông bị thực dân Pháp lưu đày đến chốn “rừng xanh, núi đỏ” này. Tham gia tổ chức “Thanh niên Cách mạng đồng chí hội” khi chưa đầy 15 tuổi, “Tê Đơ” nhanh chóng trưởng thành và trở thành “hạt giống đỏ” của cách mạng Việt Nam. Bị kết án tử hình rồi hạ xuống chung thân, những trận đòn tù dã man tại các nhà lao như Lao Bảo, Buôn Mê Thuột, Ba Tơ... dường như chỉ là ngọn lửa lò tôi rèn thêm bản lĩnh và lý tưởng của người Cộng sản trẻ. Ngay cả mật danh “Tê Đơ” cũng là một cái tên được đặt trong những tháng ngày hoạt động cách mạng sôi nổi ấy.
Cuốn hồi ký “Từ núi rừng Ba Tơ” do Đại tá, nhà văn Lương Sĩ Cầm chấp bút là một áng văn học sinh động về những người du kích Ba Tơ. Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, bằng sự nhạy bén của mình, Tỉnh ủy lâm thời Quảng Ngãi đã quyết định cướp đồn Ba Tơ. Nhiệm vụ trực tiếp chỉ huy khởi nghĩa Ba Tơ được giao cho “Tê Đơ - Phạm Kiệt”. Suốt một đêm dài giằng co, đấu trí với địch, quần chúng cách mạng đã chiếm đồn Ba Tơ, bắt tất cả sỹ quan và quân lính trong đồn, giải tán chính quyền bù nhìn, giành thắng lợi hoàn toàn mà không hề đổ máu, hy sinh một ai.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng Trung tướng Phạm Kiệt nghiên cứu phòng thủ miền Đông Bắc - Quảng Ninh (tháng 7-1969) Ảnh: Tư liệu
Sáng 13/3/1945, Đội du kích Ba Tơ chính thức được thành lập. “Tê Đơ - Phạm Kiệt” được Tỉnh ủy giao làm Chỉ huy trưởng. Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng và Đại tướng Võ Nguyên Giáp đánh giá rất cao thắng lợi này, coi đó là một điển hình tiên phong, một bài học kinh nghiệm lớn về chiến tranh nhân dân. Khởi nghĩa Ba Tơ đã mở đầu cho truyền thống đánh thắng trận đầu, tạo nên tinh thần “quyết chiến - quyết thắng” của quân đội ta.
Nhưng, niềm vui độc lập chưa trọn vẹn thì kẻ thù đã tiếp tục nổ súng gây hấn. Với quân số áp đảo và trang bị vũ khí tối tân, thực dân Pháp nhanh chóng đánh chiếm Nam Bộ và tấn công vào miền Trung hòng thần tốc tiến về Hà Nội. Nhưng các đoàn quân Nam tiến và quân dân Nam Trung Bộ dưới sự lãnh đạo của Khu ủy và Bộ Chỉ huy Nam Trung Bộ, mà đứng đầu là Chỉ huy trưởng Phạm Kiệt đã tạo nên một huyền thoại của khu V. Chiến dịch 101 ngày phòng thủ Nha Trang đã xé nhỏ lực lượng quân viễn chinh Pháp, đánh đắm nhiều tàu chở quân, vũ khí, đạn dược, cầm chân và tiêu hao sinh lực địch, buộc chúng phải dừng chân tại nơi này. 101 ngày đêm ấy cũng đã trở thành một bài học quý trong tác chiến và phòng thủ đô thị, giúp cho Đà Nẵng, Hải Phòng và Hà Nội giành được thế chủ động sau này.
Hai lần được Bác Hồ tặng súng
“Nói thẳng, nói thật cũng phải dũng cảm không kém gì xông pha trên chiến trường”. Trung tướng Kiệt nhiều lần nhắc lại điều đó với đồng đội và các con của mình. Trong suy nghĩ của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng về Trung tướng Phạm Kiệt thì “Ngay từ lần gặp đầu tiên cuối những năm 20, tôi đã nhìn thấy ở anh một con người chân thành, chân thật, dễ gần và dễ mến. Sau này, những ngày sống và làm việc trên đất Bắc, tôi càng hiểu, càng quý anh hơn. Quý một con người trung thực, thẳng thắn, lúc nào cũng nói thẳng, nói thật, không úp mở, rào chắn… Nhiều người nói anh khá nóng tính, nhưng tôi nghĩ anh Kiệt là người có trách nhiệm phụng sự nhân dân, Tổ quốc rất cao”.
Một lần trả lời phỏng vấn báo chí về chiến thắng Điện Biên Phủ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp từng nói: “Một tin thứ hai, có thể nói là dân chủ trong bộ đội ta, cái dũng cảm, kiên trì chân lý là anh Kiệt ở phía Tây Bắc. Anh Kiệt tê-lê-phôn cho tôi, nói: “Anh Văn ạ, tôi ở đơn vị pháo đây, pháo triển khai bằng công sự dã chiến ở giữa cánh đồng ban ngày, bom đạn của địch chắc chắn không thể trụ được. Đề nghị anh cân nhắc…”. Chỉ có Kiệt mới dám nói câu đó…!”. Điều mà đồng chí Phạm Kiệt đề nghị Đại tướng cân nhắc chính là việc chuyển từ kế hoạch “đánh nhanh” sang “đánh chắc”. Qua 56 ngày đêm, kế hoạch “đánh chắc, tiến chắc” đã dệt nên trang sử vàng cho dân tộc Việt Nam. Vậy mà cho đến khi nằm xuống, Trung tướng Phạm Kiệt không mảy may nhắc đến chuyện từng đề nghị cân nhắc kế hoạch tác chiến. Và, có lẽ cũng sẽ chẳng có ai biết đến chuyện này nếu Đại tướng Võ Nguyên Giáp không công khai ý kiến “vàng” của Tướng Phạm Kiệt.
Cuộc sống luôn lưu giữ những điều thiêng liêng nhất. Khẩu Cacbin số hiệu 585440, khẩu súng lục hiệu mô-de số 707271, chiếc ra-đi-ô mà tướng Đờ Cát đã dùng trong suốt chiến dịch Điện Biên Phủ... đang trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam là kỷ vật của hai con người đặc biệt. Trong đó, hai khẩu súng là những món quà mà Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng tướng Phạm Kiệt. Những tấm ảnh tư liệu mà Đại tá Phạm Hùng, con trai Trung tướng Phạm Kiệt cho tôi xem có ý nghĩa hơn mọi lời hoa mỹ. Khi Bác ở chiến khu, có người cận vệ Phạm Kiệt luôn theo sát bên Người; ngày Bác về thăm quê hương Nam Đàn, có sự tháp tùng tận tụy của người học trò ấy. Những lần Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm CANDVT, không thể thiếu tướng Kiệt trong hàng quân danh dự nghiêm trang chào đón; cây đa trên đồi Vật Lại do Người trồng vào mùa xuân năm 1969, cũng có bàn tay nâng cây, vun đất của Trung tướng Kiệt... Và, ngay cả trong những ngày cuối cùng trước khi vĩnh viễn ra đi, Bác cũng nắm tay tướng Kiệt thật chặt, dặn dò bao điều tâm huyết.
Trung tướng Phạm Kiệt (giữa) nghe Ban Chỉ huy Đồn Biên phòng 34 (Hải Phòng) báo cáo phương án tác chiến Ảnh: Tư liệu
Tư lệnh “thép”
Năm 1961, khi ông đảm nhận chức vụ Thứ trưởng Bộ Công an kiêm Tư lệnh CANDVT, cũng là lúc cuộc chiến đấu chống gián điệp biệt kích bắt đầu quyết liệt ở miền Bắc. Là một trong những người trực tiếp tham gia nghiên cứu đối tượng và chỉ đạo các đơn vị Công an, CANDVT phối hợp hành động, tướng Phạm Kiệt đã chỉ đạo lực lượng đánh án sử dụng chiến thuật “dùng địch để đánh địch”, thông qua các nhóm biệt kích ta bắt được để cung cấp thông tin giả, hướng hoạt động của địch theo yêu cầu, mục đích của ta, bảo vệ được những mục tiêu quan trọng và đồng thời “câu nhử”, bắt thêm nhiều toán khác.
Trong giai đoạn Mỹ huy động không lực bắn phá miền Bắc, chính tướng Kiệt là người chủ trương xây dựng “Mỗi đồn CANDVT là một trận địa phòng không”. Khẩu hiệu này đã trở thành tiêu chí thi đua đánh Mỹ của lực lượng. Đúng như dự kiến, CANDVT đã đánh thắng máy bay Mỹ ngay từ trận đầu bằng súng bộ binh. Chiến công nối tiếp chiến công, các đơn vị như Phân đội 3 CANDVT Hàm Rồng, Thanh Hóa; Đồn Cha Lo, Đồn Roòn, Đồn Cửa Lò, Đồn Sốp Cộp, Đồn Trà Lý... liên tiếp báo tin thắng trận.
Năm 1963, khi tháp tùng Thủ tướng Phạm Văn Đồng vào thăm Vĩnh Linh, tướng Phạm Kiệt nhận thấy, địa tầng ở đây có thể đào được địa đạo như địa đạo Củ Chi nên chỉ đạo cho đồng chí Lê Xuân Vi, Đồn trưởng Đồn CAVT Vĩnh Mốc trực tiếp nghiên cứu thi công. Từ thành công ở Vĩnh Thạch, ông chỉ đạo phổ biến rộng rãi trong toàn dân. Các địa đạo được bà con đào mở rộng từ Vĩnh Mốc sang Vĩnh Giang, Vĩnh Quang... để trở thành một hệ thống địa đạo rộng lớn như chúng ta thấy ngày hôm nay.
Có người nói: “Thủ trưởng là do cấp trên quyết định, ví như bàn tay phải. Thủ lĩnh là do anh em, đồng đội tín nhiệm, kính nể tôn sùng, ví như bàn tay trái. Nên bất kỳ đơn vị nào, tập thể nào mà người đứng đầu vừa là thủ trưởng, vừa là thủ lĩnh thì ví như bàn tay phải và bàn tay trái chập khít vào nhau, sức mạnh của đơn vị đó, tập thể đó là vô địch. Không khó khăn, ác liệt nào khuất phục nổi họ”. Trong thời kỳ ông làm Tư lệnh, CANDVT không chỉ đánh giặc giỏi, bảo vệ biên giới vững vàng mà thực sự là một lực lượng vững mạnh toàn diện, liên tục được nhận lẵng hoa của Bác Hồ. Khi đó, CANDVT có Đoàn văn công, Đoàn điện ảnh, Đội bóng chuyền và tờ tin CANDVT nổi tiếng...
Cùng với nhiều huân, huy chương cao quý, Đảng, Nhà nước đã truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh và danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho ông. Dòng sông Trà vẫn đang mê mải chảy trước mắt chúng tôi, nhưng người anh hùng sinh ra bên dòng sông ấy đã hóa thân vào sương khói biên cương. Hoặc cũng có thể, ông hóa thân vào ngọn lúa, củ khoai, dòng sông, con đò trên đất này để ngàn năm nghe sóng hát. Nhưng, lực lượng Công an nhân dân, BĐBP sẽ luôn ghi nhớ những câu chuyện về ông, vị Tư lệnh “thép” đầy tài đức và trung hậu.