Những định hướng, nội dung quan trọng của Dự thảo Luật Tổ chức TAND sửa đổi (kỳ 6)
Pháp đình - Ngày đăng : 09:22, 15/03/2014
Là các vấn đề được đặt ra và sẽ thể hiện hết sức cụ thể, mang tính khả thi trong Dự thảo Luật…
Bài 6: Công tác thi tuyển, tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán
Xung quanh vấn đề này nhiều ý kiến đề nghị chuẩn hóa lại các tiêu chuẩn đối với Thẩm phán, khắc phục những hạn chế, bất cập của quy định hiện hành, đồng thời có cơ chế kết hợp thi tuyển với tuyển chọn người để bổ nhiệm Thẩm phán, mở rộng nguồn bổ nhiệm Thẩm phán nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán. Cụ thể, người trúng tuyển kỳ thi tuyển chọn Thẩm phán quốc gia sẽ được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm làm Trợ lý Thẩm phán (người dự tuyển kỳ thi tuyển chọn Thẩm phán quốc gia có thể là công chức, viên chức Tòa án hoặc tham gia công tác pháp luật ngoài Tòa án như: Luật sư, Luật gia hoặc những người có trình độ cử nhân Luật, đang công tác, học tập ở các cơ quan, tổ chức khác). Sau thời gian làm Trợ lý Thẩm phán, tùy thuộc vào phẩm chất đạo đức cũng như kinh nghiệm công tác dưới sự kèm cặp của các Thẩm phán, Trợ lý Thẩm phán sẽ được tuyển chọn, bổ nhiệm làm Thẩm phán chính thức. Bên cạnh nguồn Trợ lý Thẩm phán, người đã có thời gian thực tiễn làm công tác Tòa án, chưa được bổ nhiệm làm Trợ lý Thẩm phán nhưng trúng tuyển kỳ thi tuyển chọn Thẩm phán quốc gia thì cũng được xem xét, đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán.
Nhiều ý kiến nhất trí về việc cần chuẩn hóa lại các tiêu chuẩn đối với Thẩm phán nhưng đề nghị chưa đặt ra vấn đề thi tuyển để tuyển chọn Thẩm phán vì thực tiễn hiện nay, việc lựa chọn nhân sự để đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán đang gặp khó khăn; nếu đặt thêm điều kiện phải thi tuyển thì có thể làm cho tình trạng thiếu Thẩm phán tại các Tòa án trầm trọng hơn.
Tòa án nhân dân tối cao nhất trí kết hợp thi tuyển với tuyển chọn người để bổ nhiệm Thẩm phán, mở rộng nguồn bổ nhiệm Thẩm phán nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán vì việc kết hợp thi tuyển với tuyển chọn Thẩm phán sẽ góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán, mở rộng nguồn để xem xét, đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán theo định hướng đã được xác định trong Nghị quyết số 49-NQ/TW. Bên cạnh đó, việc thi tuyển chỉ đặt ra đối với những người chưa là Thẩm phán mà không đặt ra đối với những người đã giữ chức danh Thẩm phán hiện nay nên sẽ không tạo ra tình trạng thiếu Thẩm phán. Như vậy, kết hợp thi tuyển với tuyển chọn Thẩm phán nhằm góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán, bảo đảm lựa chọn được những người thực sự có đức, có tài, có năng lực tham gia làm công tác xét xử… là một phương án khả thi.
Ban soạn thảo cũng cho rằng, chất lượng của đội ngũ Thẩm phán phụ thuộc nhiều vào chất lượng hoạt động của Hội đồng tuyển chọn và từng thành viên của Hội đồng tuyển chọn. Theo quy định của Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân năm 2002, thì hiện nay có Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân tối cao, Thẩm phán Tòa án quân sự Trung tương, 63 hội đồng tuyển chọn Thẩm phán trung cấp, sơ cấp và các hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án quân sự; chất lượng hoạt động của các hội đồng có sự khác nhau, cách thức, quy trình làm việc của các hội đồng có sự khác nhau, trình độ, năng lực của thành viên các hội đồng cũng khác nhau; do đó, công tác tuyển chọn nhân sự để bổ nhiệm Thẩm phán, đặc biệt là các Thẩm phán Tòa án nhân dân địa phương chưa bảo đảm chất lượng đồng đều, ảnh hưởng đến yêu cầu luân chuyển, điều động Thẩm phán giữa các địa phương.
Quang cảnh Hội thảo về luật Tổ chức TAND (sửa đổi)
Do vậy nâng cao chất lượng công tác tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán; bảo đảm các Thẩm phán được tuyển chọn, bổ nhiệm có trình độ đồng đều, đáp ứng yêu cầu luân chuyển, điều động, biệt phái Thẩm phán công tác tại các Tòa án phải được đặt ra và có phương án giải quyết. Theo đó Điều 58 và Điều 59 của dự thảo Luật thiết kế theo hướng chỉ thành lập một Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán do Chánh án Toà án nhân dân tối cao làm Chủ tịch Hội đồng để bảo đảm chất lượng đồng đều giữa các ứng viên được tuyển chọn, đề nghị bổ nhiệm làm Thẩm phán, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán, đáp ứng yêu cầu luân chuyển, điều động, biệt phái Thẩm phán giữa các địa phương, khu vực trong cả nước. Quy định theo hướng này cũng phù hợp với quy định của Hiến pháp mới về việc Thẩm phán Tòa án nhân dân do Chủ tịch nước bổ nhiệm.
Trong quá trình xây dựng dự thảo luật, cũng có ý kiến đề nghị cân nhắc lại tính khả thi của việc giao cho Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán quốc gia tuyển chọn và đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán trên phạm vi toàn quốc. Về vấn đề này, Tòa án nhân dân tối cao thấy rằng, đây là công việc nặng nề nhưng cần thống nhất giao cho Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán quốc gia để bảo đảm chất lượng của đội ngũ Thẩm phán - Những người trực tiếp thực hiện quyền tư pháp quốc gia chứ không phải chỉ tham gia công tác xét xử ở một địa phương nhất định. Bên cạnh đó, khi Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) có hiệu lực thi hành, đội ngũ Thẩm phán đã được bổ nhiệm hiện nay sẽ tiếp tục làm nhiệm vụ hoặc được tái nhiệm, đồng thời các quy định mới về kéo dài nhiệm kỳ của Thẩm phán, tăng tuổi làm việc của Thẩm phán, tổ chức thi tuyển để chọn người bổ nhiệm làm trợ lý Thẩm phán… sẽ góp phần giảm tải khối lượng công việc mà Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán quốc gia phải giải quyết.
Về nhiệm kỳ của Thẩm phán: Theo quy định hiện hành thì nhiệm kỳ của Thẩm phán (5 năm) là ngắn và chưa phù hợp, ít nhiều tạo tâm lý không yên tâm làm việc của Thẩm phán, thậm chí có nhiều trường hợp còn có tâm lý e ngại trước những tác động của những cơ quan, cá nhân có thẩm quyền xem xét, tuyển chọn, đề nghị bổ nhiệm; nhất là khi đến gần thời điểm tiến hành bổ nhiệm lại. Đây là một trong những nguyên nhân làm nguyên tắc độc lập của Thẩm phán khi xét xử bị ảnh hưởng. Nhiệm kỳ Thẩm phán quá ngắn cũng ảnh hưởng tiêu cực đến công tác tổ chức, quản lý của Tòa án, gây tốn kém thời gian, vật chất cho công tác tái bổ nhiệm. Vì vậy, Ban soạn thảo cho rằng cần sửa đổi, bổ sung quy định về nhiệm kỳ của Thẩm phán trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi). Theo đó trong dự thảo Luật quy định theo hướng kéo dài nhiệm kỳ của Thẩm phán (hoặc quy định Thẩm phán được bổ nhiệm và giữ chức danh Thẩm phán cho đến khi nghỉ hưu hoặc chuyển công tác khác; hoặc kéo dài nhiệm kỳ của Thẩm phán lên 10 năm).
Quy định theo hướng này sẽ tạo điều kiện cho Thẩm phán yên tâm làm nhiệm vụ, thực hiện tốt nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong xét xử, bảo đảm cho các phán quyết mà Thẩm phán đưa ra khách quan, đúng pháp luật. Bên cạnh đó, quy định kéo dài nhiệm kỳ của Thẩm phán cũng sẽ tiết kiệm được những chi phí về thời gian, vật chất cho công tác tái bổ nhiệm.
Về tuổi làm việc của Thẩm phán: Điều 64 của dự thảo Luật quy định: Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao được làm việc đến 70 tuổi không phân biệt nam, nữ; Thẩm phán khác được làm việc đến 65 tuổi không phân biệt nam, nữ. Quy định về độ tuổi của Thẩm phán theo hướng nêu trên sẽ khắc phục được tình trạng lãng phí những Thẩm phán có trình độ, kinh nghiệm cao, vẫn còn khả năng đảm đương tốt nhiệm vụ Thẩm phán nhưng phải nghỉ hưu theo quy định áp dụng chung đối với các cán bộ, công chức Nhà nước. Bên cạnh đó, việc kéo dài thời gian làm việc đối với Thẩm phán sẽ làm giảm nhu cầu phải đạo tạo, bổ nhiệm Thẩm phán mới, khắc phục tình trạng thiếu Thẩm phán. Hơn nữa, cho dù có được đào tạo, bổ nhiệm mới thì các Thẩm phán mới cũng cần có thời gian để tích lũy được kinh nghiệm mới có thể làm tốt nhiệm vụ xét xử.