Quy định về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” trong BLHS 2015
Tòa án - Ngày đăng : 13:46, 29/05/2019
Điều 175 BLHS 2015 (sửa dổi năm 2017) quy định về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản: Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;
b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản…
Như vậy, tại Điều 175 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã quy định thêm hành vi mới của tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, đó là tình tiết “đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả”.
Về hành vi “bỏ trốn”: BLHS năm 1999 quy định hành vi “bỏ trốn” là một trong các tình tiết định tội của Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (điểm a khoản 1 Điều 140). BLHS năm 2015 bỏ hành vi “bỏ trốn” trên. Tuy nhiên, BLHS 2015 (sửa đổi, bố sung năm 2017) đã kế thừa quy định của BLHS năm 1999, bổ sung lại hành vi “bỏ trốn” là một trong các tình tiết định tội của Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (điểm a khoản 1 Điều 175).
Chiếm đoạt tài sản là hành vi cố ý chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản đang thuộc quản lý của người khác vào phạm vi sở hữu của mình. “Cố tình không trả” là hành vi vi phạm nghĩa vụ trả lại tài sản được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, làm cho chủ tài sản mất khả năng đòi lại tài sản của mình. Việc BLHS 2015 (sửa đổi năm 2017) bổ sung hành vi “đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả” là hợp lý để xử lý những trường hợp có khả năng trả nợ nhưng chây ỳ nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác, đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của xã hội.
Ảnh minh họa
Điều 175 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã quy định chi tiết các dấu hiệu pháp lý trong cấu thành tội phạm này một các cụ thể, đầy đủ, chính xác hơn.
Dưới góc độ khoa học luật hình sự thì lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi của chủ thế có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định đã vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác có giá trị từ 4 triệu đồng trở lên thông qua hình thức hợp đồng rồi bỏ trốn hoặc đến thời hạn trả lại tài sản dù có khả năng, điều kiện trả lại tài sản mà cố tình không trả hoặc dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản hoặc dùng tài sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
Để cụ thể hóa điều luật, tránh hiểu sai, hiểu không thống nhất về quy định “đã gây hậu quả nghiêm trọng” “đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản”, Bộ luật Hình sự mới đã bỏ cụm từ “đã gây hậu quả nghiệm trọng”và quy định cụ thể rõ ràng đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hoặc một số tội danh cụ thể. Các tội danh được liệt kê cụ thể tránh hiểu chung chung không rõ ràng như BLHS 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009.
BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) còn quy định bổ sung trường hợp “tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại”. Đây cũng là quy định cần thiết, phù hợp, thể hiện rõ việc bảo vệ người bị hại. Nếu lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại thì đủ yếu tố cấu thành tội phạm mà không cần phải xem xét đến yếu tố định lượng tài sản trị giá bao nhiêu hay trước đó đã bị kết án về tội phạm nào hay chưa.
Thay đổi về các dấu hiệu định khung hình phạt. Điểm e khoản 2, điểm b khoản 3, điểm b khoản 4 Điều 140 BLHS năm 1999 sử dụng các tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” làm tình tiết định khung hình phạt của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Nhưng cũng như ở các tội khác, Điều 175 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) không quy định các tình tiết này làm tình tiết định khung hình phạt, đây cũng chính là một điểm mới mang tính tiến bộ của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), bởi lẽ: Đây là những “hậu quả gián tiếp” do hành vi phạm tội gây ra, mà việc định tội, định khung hình phạt đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội cần phải căn cứ vào hậu quả trực tiếp của hành vi nguy hiểm cho xã hội, chứ không phải là hậu quả gián tiếp (hậu quả mang tính chất suy diễn và nằm ngoài khả năng dự đoán của người phạm tội). Hơn nữa, những “hậu quả nghiêm trọng” hay “rất nghiêm trọng”, “đặc biệt nghiêm trọng” như trên mang tính không cụ thể, nếu quy định vào trong luật như BLHS năm 1999, thì sẽ dẫn đến việc phải có văn bản hướng dẫn dưới luật thì mới thi hành được luật, mà luật hình sự thì phải cụ thể và rõ ràng, dễ hiểu để mọi người đều có thể hiểu và thi hành, tránh phát sinh nhiều văn bản hướng dẫn dưới luật; như vậy, quy định của BLHS năm 2015 cụ thể hơn và mang tính tiên liệu thực tiễn cao hơn BLHS năm 1999.
Bên cạnh đó, điểm b khoản 2 Điều 175 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định thêm tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” làm tình tiết định khung hình phạt, quy định này là hợp lý và cần thiết để răn đe, trừng trị đối với những người mà tính “bất tín” đã trở thành bản tính. Hiện nay tình trạng vay nợ nhưng đến hạn không chịu trả diễn ra tràn lan trên khắp cả nước, nhiều đối tượng sử dụng thủ đoạn này liên tục nhiều lần, thực hiện trong thời gian dài và coi đây như công cụ kiếm sống của mình. Trong các tội danh thuộc chương các tội xâm phạm sở hữu cũng quy định đây là tình tiết định khung hình phạt. Do vậy để phù hợp với tình hình thực tế cũng như cân đối phù hợp với các tội danh khác, các nhà làm luật đã đưa tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” làm tình tiết định khung hình phạt.