Vai trò quan trọng của hòa giải trong giải quyết tranh chấp dân sự
Tòa án - Ngày đăng : 07:55, 24/01/2019
Hòa giải được là tốt nhất
Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa: Hòa giải là giải quyết các tranh chấp bằng việc các bên dàn xếp, thương lượng với nhau có sự tham gia của bên thứ ba. Sổ tay đào tạo hòa giải của Hội đồng hòa giải và thương lượng Tòa án tối cao Ấn Độ đưa ra khái niệm: “Hòa giải là quy trình đàm phán tự nguyện, có cấu trúc và lấy các bên làm trọng tâm, tại đó một bên thứ ba trung gian giúp các bên giải quyết ôn hòa tranh chấp của họ bằng cách sử dụng các kỹ thuật đàm phán và trao đổi thông tin chuyên biệt” và “Bản chất của hòa giải là quy trình đàm phán có trợ giúp. Hòa giải giải quyết cả các vấn đề về tình tiết và pháp lý, nguyên nhân nền tảng của tranh chấp…”.
Theo Thẩm phán TANDTC Tống Anh Hào (nguyên Phó Chánh án TANDTC), trong các phương thức giải quyết các tranh chấp dân sự thì giải quyết bằng hòa giải là hiệu quả nhất, tốt nhất. Bởi hòa giải thành sẽ chấm dứt mâu thuẫn, xung đột hoặc xích mích, tranh chấp một cách ổn thỏa.
Nếu giải quyết tranh chấp bằng biện pháp xét xử, khi kết thúc phiên tòa HĐXX phải ra bản án tuyên chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu của đương sự; phán quyết của Hội đồng Trọng tài cũng vậy. Hay nói một cách khác, việc xét xử của Tòa án, sự phán quyết của Trọng tài sẽ có bên thắng, bên thua, thậm chí có nhiều trường hợp cả hai bên đều thua, các bên đều không hài lòng (như trường hợp Tòa án chỉ chấp nhận một phần yêu cầu của người khởi kiện thì nguyên đơn và bị đơn đều không mong muốn). Ngược lại, nếu các tranh chấp được giải quỵết bằng biện pháp hòa giải, có nghĩa là các bên hoàn toàn tự nguyện thỏa thuận về những giải pháp giải quyết tranh chấp. Như vậy khi hòa giải thành thì các nội dung giải quyết tranh chấp là ý chí của các bên, các chủ thể tranh chấp đều mong muốn, hài lòng. Hay nói cách khác, khi hòa giải thành sẽ không có kẻ thắng, người thua, thậm chí có người còn nói hòa giải thành là giúp cho các bên tranh chấp “đều thắng”.
Một buổi hòa tại tại Trung tâm hòa giải huyện Kiến Thụy, TP. Hải Phòng
Mặt khác, đối với bản án, khi thi hành thường gặp nhiều trở ngại khó khăn vì nhiều đương sự khi bị bản án tuyên buộc thực hiện, nghĩa không tự nguyện thi hành. Ngược lại, đối với những nội dung thỏa thuận khi hòa giải thành là ý chí của các bên tranh chấp nên thường là tự giác thi hành. Trong thực tế nhiều vụ tranh chấp sau khi hòa giải thành các bên không cần yêu cầu Tòa án công nhận, họ tự nguyện thực hiện theo các nội dung đã thỏa thuận, và thực hiện một cách dễ dàng, nhanh chóng. Trường hợp phải thi hành án thì thực tiễn đã cho thấy thi hành các “Quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự”lúc nào cũng thuận lợi nhanh chóng hơn những bản án. Từ những phân tích nói trên đã thể hiện hòa giải thành là một phương thức giải quyết các tranh chấp dân sự tốt nhất, ổn thỏa nhất.
Tiếp đó, có thể nói, hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp tiết kiệm nhất, hiệu quả nhất. Bởi khi tiến hành hòa giải không bắt buộc phải xác minh, thu thập đầy đủ các tài liệu, chứng cứ; nhiều trường hợp chỉ sau thụ lý chỉ cần một thời gian ngắn đã hòa giải giải quyết xong tranh chẩp; việc hòa giải chủ yếu do một hòa giải viên, một Thẩm phán hay một người khác có nhiệm vụ hòa giải tiến hành... Ngược lại đối với những vụ án (giải quyết theo tố tụng dân sự), trước khi xét xử phải yêu cầu các đương sự cung cấp, giao nộp đầy đủ tài liệu, chứng cứ, trường hợp thấy cần thiết Thẩm phán phải áp dụng các biện pháp để thu thập chứng cứ làm rõ những tình tiết của vụ án; thời gian chuẩn bị xét xử thường kéo dài. Khi xét xử, HĐXX ít nhất là 3 người (trừ những vụ án giải quyết theo thủ tục rút gọn), nhiều vụ án phải mở phiên tòa nhiều lần mới xét xử xong, thậm chí không ít vụ án phải qua nhiều vòng tố tụng (sơ thẩm, phúc thẩm; giám đốc thẩm lại trở về sơ, phúc thẩm…).
Từ những so sánh nói trên đã thể hiện giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa giải là hiệu quả nhất, tiết kiệm nhất, ít tốn kém về thời gian, về nhân lực và chi phí tố tụng của cơ quan nhà nước, của các bên tranh chấp.
Đồng thời, theo pháp luật về hòa giải hiện nay thì khi hòa giải ngoài tố tụng, các bên tranh chấp không phải nộp tiền chi phí (trừ hòa giải thương mại). Trong tố tụng dân sự nếu hòa giải thành trước khi mở phiên tòa thì các đương sự chỉ chịu 50% án phí dân sự sơ thẩm. Cho nên nếu hòa giải thành sẽ giúp các bên không phải nộp hoặc giảm tiền nộp án phí.
Mặt khác, nếu sau khi hòa giải thành, các bên tự nguyện thi hành sẽ không cần đến việc giải quyết của cơ quan Thi hành án dân sự. Như vậy sẽ giảm áp lực, sự quá tải cho cơ quan Thi hành án và các bên tranh chấp không phải mất một khoản tiền để chi phí thi hành án.
Cuối cùng, hòa giải bảo đảm được bí mật, ít ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của cá nhân, pháp nhân, nhất là ít ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh.Thường hòa giải chỉ có mặt của Hòa giải viên (người có trách nhiệm hòa giải) với tư cách là chủ trì phiên hòa giải và sự tham gia của các bên tranh chấp (một số người khác có thể tham gia khi xét thấy cần thiết).Cho nên có thể nói, việc giải quyết tranh chấp bằng hòa giải ít có người biết; khi có yêu cầu của các bên tranh chấp thì quá trình hòa giải sẽ thực hiện không công khai, không phổ biến cho người khác biết. Đặc biệt, việc hòa giải thí điểm tại Tòa án thì các thông tin trong quá trình hòa giải được Hòa giải viên giữ bí mật, tài liệu, lời trình bày của các bên tranh chấp và những thông tin khác thu thập được trong quá trình hòa giải không được dùng làm chứng cứ của vụ án(trừ trường hợp các bên đều đồng ý sử dụng những tài liệu, lời trình bày đó làm chứng cứ của vụ án). Như vậy, bằng biện pháp hòa giải, các nội dung tranh chấp sẽ được bảo mật, ít ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của cá nhân, pháp nhân có tranh chấp.
Hòa giải thành là tăng cường sự đoàn kết trong nhân dân, góp phần giữ gìn an ninh trật tự. Quá trình hòa giải là các bên gặp nhau, trao đổi làm cho các bên hiểu nhau hơn, nếu hòa giải thành thì sự thân thiện của các bên càng cao, sẽ làm triệt tiêu các các mâu thuẫn. Như vậy sẽ tăng cường sự đoàn kết của các cá nhân, pháp nhân, góp phần giữ gìn trật tự an toàn xã hội.
Các loại hình hòa giải hiện nay
Cũng theo Thẩm phán TANDTC Tống Anh Hào, hiện Việt Nam có hòa giải ngoài Tòa án và hòa giải trong tố tụng dân sự. Trong đó, hòa giải ngoài Tòa án là những hoạt động hòa giải do các cơ quan, tổ chức và cá nhân không phải là Tòa án thực hiện nhằm giải quyết các tranh chấp dân sự.
Theo quy định thì hòa giải ngoài Tòa án bao gồm bốn hình thức: Đầu tiên là hòa giải cơ sở, đây là việc hòa giải viên hướng dẫn, giúp đỡ các bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật tại thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố, khu phổ, khối phố và cộng đồng dân cư khác. Tiếp đó là hòa giải tại UBND xã, phường, thị trấn; hòa giải các tranh chấp đất đai theo quy định tại Điều 202 Luật Đất đai năm 2013 và Điều 88 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP.
Đó còn là hòa giải các tranh chấp lao động, theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2012, các tranh chấp lao động cá nhân hoặc tranh chấp lao động của tập thể về quyền được Hòa giải viên lao động hòa giải; tranh chấp lao động tập thể về lợi ích các bên có quyền yêu cầu Hội đồng trọng tài lao động hòa giải. Cuối cùng là hòa giải tranh chấp thương mại theo Nghị định số 22/2017/NĐ-CP thì tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại, tranh chấp giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại, tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng hòa giải thương mại được Hòa giải viên thương mại thực hiện hòa giải khi có thỏa thuận của các bên tranh chấp.
Còn hòa giải trong tố tụng dân sự được hiểu là theo quy định của BLTTDS, trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được. Đối với những vụ án hòa giải thành thì Tòa án ra Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, nếu hòa giải không thành thì Tòa án ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử.