Luật Tố tụng Hành chính: Có nên mở rộng quy định người được ủy quyền tham gia tố tụng?

Tòa án - Ngày đăng : 09:00, 26/12/2018

Để khắc phục những bất cập, có ý kiến cho rằng nên mở rộng quy định người được ủy quyền tham gia tố tụng giải quyết án hành chính…

Khoản 4 Điều 32 Luật TTHC năm 2015 quy định: “Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Toà án thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp tỉnh”. Tuy nhiên nếu trong trường hợp đương sự khởi kiện cả quyết định hành chính, hành vi hành chính của UBND cấp huyện hoặc Chủ tịch UBND cấp huyện vừa kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Chủ tịch UBND cấp tỉnh hoặc Chủ tịch UBND cấp tỉnh trong cùng một vụ án thì người bị kiện trong trường hợp này được xác định như thế nào là vấn đề cần làm rõ.

Về xem xét, kiến nghị việc trả lại đơn khởi kiện và tham gia phiên họp giải quyết khiếu nại, kiến nghị việc trả lại đơn khởi kiện của tòa án. Khoản 1 Điều 124 Luật TTHC năm 2015 quy định: “Trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được văn bản trả lại đơn khởi kiện, người khởi kiện có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện”. Tuy nhiên, theo ý kiến chuyên gia, nếu chỉ căn cứ vào thông báo trả lại đơn khởi kiện mà không có đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo thì rất khó để Viện kiểm sát thực hiện quyền kiến nghị.

Về thời hạn chuẩn bị xét xử: Theo quy định tại điểm a, b khoản 2, 3 Luật TTHC năm 2015 quy định về thời hiệu khởi kiện: “ Thời hiệu khởi kiện đối với từng trường hợp được quy định như sau: 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc; 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; Trường hợp đương sự khiếu nại theo đúng quy định của pháp luật đến cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì thời hiệu khởi kiện được quy định như sau: 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc quyết định giải quyết khiếu nại lần hai; 01 năm kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật mà cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền không giải quyết và không có văn bản trả lời cho người khiếu nại”.

Luật Tố tụng Hành chính: Có nên mở rộng quy định người được ủy quyền tham gia tố tụng?

Một phiên tòa hành chính

Khoản 1, 2 Điều 130 Luật TTHC cũng quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử: “04 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án đối với trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 116 của Luật này; 02 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 116 của Luật này.

Theo nội dung trên thì Khoản 1, 2 Điều 130 Luật TTHC năm 2015 chỉ quy định thời hạn chuẩn bị xét xử đối với trường hợp quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 116, còn các trường hợp quy định tại điểm a, b khoản 3 Điều 116 lại không có quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử, do đó khi thụ lý giải quyết đối với những trường hợp này thì thời gian chuẩn bị xét xử có thể là 02 tháng hoặc 04 tháng, có thể dẫn đến việc áp dụng pháp luật không thống nhất.

Về người đại diện trong TTHC, kể từ ngày 01/4/2016 (ngày Luật TTHC có hiệu lực) thì việc cử người đại diện trong TTHC trước Tòa án nhân dân phải theo đúng quy định tại Điều 60 của Luật này. Khi tham gia TTHC, UBND thực hiện quyền, nghĩa vụ của đương sự quy định tại Điều 55 và Điều 56 của Luật. UBND có quyền tự bảo vệ, nhờ Luật sư hoặc người khác bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho mình (khoản 11 Điều 55), khi nhờ Luật sư thì Luật sư là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của UBND theo quy định tại Điều 61 Luật TTHC chứ không phải là người đại diện.

Tuy nhiên, trên thực tế giải quyết các vụ án hành chính, Chủ tịch UBND các cấp là người bị kiện không ra tòa với tư cách của mình mà thường có văn bản ủy quyền cho cấp phó của mình (Phó Chủ tịch UBND) tham gia tố tụng hành chính, nhưng cấp phó cũng lại đùn đẩy và có văn bản xin được xét xử vắng mặt, đa phần họ đều lấy lý do bận công việc, có trường hợp văn bản xin vắng mặt tất cả các buổi làm việc của Tòa án. Việc xin xét xử vắng mặt như vậy về thực tế thì không trái quy định của Luật, nhưng đã gây khó khăn rất nhiều cho công tác giải quyết án (như không làm rõ được các nội dung liên qua đến việc khởi kiện, không đối thoại trực tiếp để thỏa thuận được và trường hợp người khởi kiện rút đơn khởi kiện cũng phải được sự đồng ý của người bị kiện…); đó là những nguyên nhân gây kéo dài thời gian giải quyết vụ án và gây tốn kém thời gian, công sức và các chi phí cho việc giải quyết.

Án hành chính chủ yếu là khởi kiện các quyết định hành chính, hành vi hành chính trong các lĩnh vực quản lý thuế, đất đai, lâm nghiệp, môi trường…Do đó, loại án này liên quan đến nhiều văn bản quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực quản lý nhà nước. Trong khi đó, một số Bộ luật, luật và các văn bản hướng dẫn lại thường xuyên sửa đổi, điều chỉnh, bổ sung, bên cạnh đó, một số văn bản pháp luật còn mâu thuẫn, chồng chéo dẫn đến khó khăn trong việc áp dụng cũng như giải quyết án.

Để khắc phục những bất cập, có ý kiến cho rằng nên mở rộng quy định người được ủy quyền, như Chủ tịch có thể ủy quyền cho thủ trưởng cơ quan chuyên môn là thành viên của UBND tham gia tố tụng giải quyết án hành chính; bên cạnh đó cần sớm thông qua Luật Ban hành quyết định hành chính, cho phép trong trường hợp người bị kiện vắng mặt (Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND) thì có thể được trả lời, giải thích các nội dung theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng bằng văn bản.

Đồng thời, rà soát tổng thể cơ chế, chính sách pháp luật về đất đai, sở hữu nhà, quy hoạch, bồi thường, giải phóng mặt bằng… qua các thời kỳ để đảm bảo việc áp dụng, hướng dẫn pháp luật được thống nhất trong hệ thống pháp luật chuyên ngành và pháp luật về tố tụng.

Phương Nam