Quy định về thực hiện trợ giúp pháp lý trong tố tụng

Tòa án - Ngày đăng : 15:41, 09/12/2018

Việc bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý được các luật về tố tụng ghi nhận như một nguyên tắc cơ bản và được Nhà nước bảo đảm thực hiện. Vai trò của Thẩm phán được nhấn mạnh trong việc bảo đảm quyền trợ giúp pháp lý của người dân.

Trợ giúp pháp lý trong tố tụng hình sự

Để khắc phục được những hạn chế của BLTTHS 2003, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã ghi nhận Trợ giúp viên pháp lý với tư cách là người bào chữa tạo ra sự thống nhất trong quá trình thực hiện về hoạt động trợ giúp pháp lý trong tố tụng hình sự.  Bổ sung trách nhiệm cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thông báo, giải thích quyền được trợ giúp pháp lý.

Nhằm bảo đảm cho những người tham gia tố tụng biết quyền và nghĩa vụ của mình, Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng (Điều 71), cụ thể: Tại khoản 1 quy định cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng. Trường hợp người bị buộc tội, người bị hại thuộc diện được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm giải thích cho họ quyền được trợ giúp pháp lý; nếu họ đề nghị được trợ giúp pháp lý thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thông báo cho Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước và được bảo đảm thực hiện bằng khoản 2 Việc thông báo, giải thích phải được ghi vào biên bản”.

Bổ sung cơ chế bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý trong trường hợp chỉ định người bào chữa (khoản 2 Điều 76). Khi bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình; người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi, đồng thời đủ điều kiện được trợ giúp pháp lý là người thuộc diện được trợ giúp pháp lý thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải yêu cầu hoặc đề nghị Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước cử Trợ giúp viên pháp lý, luật sư bào chữa cho người thuộc diện được trợ giúp pháp lý (Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước có thể cử luật sư ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý tham gia án chỉ định đối với người thuộc diện được trợ giúp pháp lý).

Việc bổ sung quy định này đã chia sẻ trách nhiệm thực hiện bào chữa theo các án chỉ định cho các Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, tạo cơ chế hữu hiệu để bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý của người thuộc diện trợ giúp pháp lý, tránh bỏ sót đối tượng nhằm góp phần bảo đảm quyền con người, quyền bào chữa được Hiến pháp 2013 ghi nhận.

 Trợ giúp pháp lý trong tố tụng dân sự

Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 kế thừa Bộ luật tố tụng dân sự 2004 và 2011 về ghi nhận tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là Trợ giúp viên pháp lý hoặc người tham gia trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý. Đồng thời, Bộ luật tố tụng dân sự 2015 đã bổ sung trách nhiệm của Nhà nước, của Thẩm phán bảo đảm quyền trợ giúp pháp lý của người thuộc diện được trợ giúp pháp lý (Điều 9, Điều 48, Điều 75).

Quy định về thực hiện trợ giúp pháp lý trong tố tụng

Trợ giúp viên pháp lý tư vấn pháp luật cho người dân

Bộ luật tố tụng dân sự 2015 cũng tiếp tục kế thừa quy định người thực hiện trợ giúp pháp lý với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (Điều 75). Như vậy, trường hợp đương sự là người thuộc diện được trợ giúp pháp lý thì Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh/thành phố sẽ cử Trợ giúp viên pháp lý/luật sư (luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý theo hợp đồng với Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước) hoặc  tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý cử luật sư làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

Theo quy định của Khoản 3 Điều 9 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, việc bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý đã được Bộ luật tố tụng dân sự 2015 ghi nhận như một nguyên tắc cơ bản, được Nhà nước bảo đảm thực hiện.

Nhằm bảo đảm cho đương sự biết quyền được yêu cầu trợ giúp pháp lý, Bộ luật tố tụng dân sự 2015 đã quy định Thẩm phán có trách nhiệm: “giải thích, hướng dẫn cho đương sự biết để họ thực hiện quyền được yêu cầu trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý” (khoản 6 Điều 46).

Đối với Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Luật đã kế thừa quy định về tư cách tham gia tố tụng của người thực hiện trợ giúp pháp lý là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (Điều 61), đồng thời, ghi nhận Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm trợ giúp pháp lý cho người được trợ giúp pháp lý (Điều 19), trách nhiệm giải thích, hướng dẫn cho đương sự biết để họ thực hiện quyền được yêu cầu trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý của Thẩm phán (Điều 38).

Trợ giúp pháp lý trong tố tụng hành chính

 Luật Tố tụng hành chính 2015 tiếp tục kế thừa quy định Trợ giúp viên pháp lý hoặc người tham gia trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (Điều 61) từ Luật tố tụng hành chính 2010. Như vậy, trường hợp đương sự là người thuộc diện được trợ giúp pháp lý thì Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh/thành phố sẽ cử Trợ giúp viên pháp lý/luật sư (luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý theo hợp đồng với Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước) hoặc tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý cử luật sư làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

Khoản 3 Điều 19 Luật Tố tụng hành chính quy định về bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Như vậy, việc bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý được Luật Tố tụng hành chính ghi nhận như một nguyên tắc cơ bản và được Nhà nước bảo đảm thực hiện.

Tương tự như trong tố tụng dân sự, nhằm bảo đảm cho đương sự biết quyền được yêu cầu trợ giúp pháp lý,  Luật Tố tụng hành chính 2015 đã quy định Thẩm phán có trách nhiệm: “giải thích, hướng dẫn cho đương sự biết để họ thực hiện quyền được yêu cầu trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý”. Vai trò của Thẩm phán được nhấn mạnh trong việc bảo đảm quyền trợ giúp pháp lý của người dân, góp phần đảm bảo quyền cơ bản của con người, quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền tiếp cận công lý.

Phương Nam