Những điểm mới của BLTTHS 2015 góp phần nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa
Tòa án - Ngày đăng : 10:11, 24/08/2018
Sau những năm cải cách tư pháp, phiên tòa hình sự ở Tòa án các cấp đã có nhiều tiến bộ, đạt được những kết quả nhất định, đảm bảo sự công bằng, dân chủ, chất lượng xét xử được nâng cao.
Quá trình tranh tụng tại phiên tòa là những hoạt động tố tụng tại phiên tòa và tranh luận giữa các bên buộc tội và bên gỡ tội nhằm xác định sự thật khách quan về vụ án làm cơ sở để Tòa án ra phán quyết về vụ án. Sau đây là những điểm mới của BLTTHS 2015 so với BLTTHS năm 2003 góp phần nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp:
Khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận “nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Trên nền tảng nguyên tắc hiến định, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung nguyên tắc “tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Đây là quy định mới nổi bật, là cơ sở cho những quy phạm pháp luật tố tụng hình sự khác cũng được thay đổi. Từ năm 2002, thuật ngữ “tranh tụng” lần đầu tiên xuất hiện ở Nghị quyết số 08/NQ-TW. Tuy nhiên, BLTTHS năm 2003 vẫn chưa ghi nhận nguyên tắc tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản trong hoạt động tố tụng hình sự. Bên cạnh đó, BLTTHS năm 2003 mặc dù thể hiện được tính tranh tụng ở một số nội dung, nhưng những quy định còn mang nặng tính thẩm vấn. Vì thế, trên thực tiễn thời gian qua, sự thống nhất thực hiện việc nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa vẫn chưa được đảm bảo. Với nguyên tắc mới này, chúng ta chờ đợi những thay đổi mang tính đột phá góp phần giữ vững công lý, củng cố vững chắc lòng tin của nhân dân đối với nền tư pháp nước nhà.
Nguyên tắc suy đoán vô tội là một nguyên tắc nhân đạo, góp phần hữu hiệu vào việc bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự. Bản chất của nguyên tắc suy đoán vô tội được hiểu là khi chứng cứ buộc tội không đầy đủ, thiếu tính vững chắc thì cơ quan tiến hành tố tụng phải suy đoán, giải thích theo hướng có lợi cho người có hành vi đó, nghĩa là đưa ra kết luận người đó không thực hiện hành vi phạm tội. Trước đây, có những quan điểm cho rằng, nguyên tắc “không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” chính là nguyên tắc “suy đoán vô tội”, vì thế mà những quan điểm này đã gọi nguyên tắc tại Điều 9 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 là nguyên tắc “suy đoán vô tội”. Nhưng xét về nội dung hai nguyên tắc không đồng nhất với nhau.
Pháp luật của nhiều nước trên thế giới đã quy định nguyên tắc này là nguyên tắc tố tụng hình sự. Tuy nhiên, BLTTHS năm 2003 của nước ta cũng như những văn bản pháp luật có liên quan không có quy định về nguyên tắc “suy đoán vô tội”.
Điều 13 BLTTHS năm 2015 ghi nhận nguyên tắc “suy đoán vô tội” với những nội dung của quy phạm bao hàm cả nội dung ở nguyên tắc Điều 9 BLTTHS năm 2003 “người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Bên cạnh đó, Điều 13 BLTTHS năm 2015 đã mở rộng hơn nội hàm so với Điều 9 BLTTHS năm 2015, thể hiện được bản chất của nguyên tắc “suy đoán vô tội”, đó là “khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không có tội”.
Việc ghi nhận nguyên tắc “suy đoán vô tội” ở BLTTHS năm 2015 đặt ra cho các cơ quan tiến hành tố tụng phải cẩn trọng hơn nữa và có trách nhiệm hơn trong hoạt động chứng minh tội phạm; bên cạnh đó, khi có những vụ án rơi vào trường hợp chứng cứ không đầy đủ, thiếu tính vững chắc thì người tiến hành tố tụng sẽ dễ dàng hơn trong việc đưa ra kết luận về kết quả của vụ án theo nguyên tắc “suy đoán vô tội”, hạn chế tình trạng tạo ra những chứng cứ khống, bịa đặt đã từng xảy ra trong một số vụ án oan, sai trong thời gian vừa qua. Như vậy, nguyên tắc này đảm bảo cho sự bình đẳng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án.
Ba là, nguyên tắc “bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự”. BLTTHS 2015 thể hiện bước tiến bộ trong quy định về quyền bào chữa. Đối với BLTTHS năm 2003, quyền bào chữa xuất hiện sớm nhất kể từ thời điểm một người bị tạm giữ (Điều 48). Còn BLTTHS năm 2015, thì quyền bào chữa của người bị buộc tội xuất hiện sớm hơn so với BLTTHS năm 2003, đó là kể từ thời điểm một người bị bắt (Điều 58 và Điều 74). Quy định này giúp phía bị buộc tội được bình đẳng hơn nữa trong việc được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trước khi diễn ra phiên tòa, quá trình xử lý vụ án đảm bảo được sự khách quan, chính xác thì chất lượng tranh tụng mới được đảm bảo. Vì thế quy định này đã góp phần mang lại sự bình đẳng cho bên buộc tội và bên gỡ tội, là tiền đề để tham gia vào quá trình tranh tụng công bằng.