Quy định về người tham gia tố tụng trong BLTTHS 2015
Tòa án - Ngày đăng : 08:35, 31/07/2018
Định giá tài sản là một trong các hoạt động điều tra
Cụ thể, người định giá tài sản có các quyền quan trọng sau: Yêu cầu cơ quan yêu cầu định giá, người tham gia tố tụng yêu cầu định giá cung cấp tài liệu cần thiết cho việc định giá; từ chối thực hiện định giá trong trường hợp thời gian không đủ để tiến hành định giá, các tài liệu cung cấp không đủ hoặc không có giá trị để định giá, nội dung yêu cầu định giá vượt quá phạm vi hiểu biết chuyên môn của mình; ghi ý kiến kết luận của mình vào bản kết luận chung nếu không thống nhất với kết luận của Hội đồng định giá tài sản. Đồng thời, chủ thể này có các nghĩa vụ sau: có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; giữ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện định giá tài sản.
Bên cạnh đó, BLTTHS năm 2015 còn quy định trách nhiệm của người định giá tài sản trong trường hợp kết luận gian dối hoặc từ chối tham gia định giá mà không vì lý do bất khả kháng, không do trở ngại khách quan và quy định những trường hợp người định giá tài sản phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi để đảm bảo tính khách quan đối với kết luận về giá mà họ đưa ra.
Nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố, Điều 83 BLTTHS năm 2015 đã quy định quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố. Theo đó, chủ thể này có quyền quan trọng sau: đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; có mặt khi lấy lời khai người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố; hỏi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố nếu được Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên đồng ý hoặc khi mỗi lần lấy lời khai của người có thẩm quyền kết thúc; có mặt khi đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố.
Đối với người đại diện theo pháp luật của pháp nhân phạm tội, chủ thể này có các quyền cơ bản sau: Được thông báo kết quả giải quyết nguồn tin về tội phạm; được biết lý do pháp nhân mà mình đại diện bị khởi tố; được thông báo, được giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này; được nhận quyết định khởi tố, quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can; quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp cưỡng chế; bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra, vụ án; bản cáo trạng; quyết định đưa vụ án ra xét xử; bản án, quyết định của Tòa án và quyết định tố tụng khác theo quy định của BLTTHS năm 2015; trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại pháp nhân mà mình đại diện hoặc buộc phải thừa nhận pháp nhân mà mình đại diện có tội; đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật theo quy định của BLTTHS năm 2015; tự bào chữa, nhờ người bào chữa cho pháp nhân; được đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu đã được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa cho pháp nhân kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu; tham gia phiên tòa, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi những người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tòa; phát biểu ý kiến sau cùng trước khi nghị án; xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa; kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án; khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Nhìn chung, các quyền này cũng tương tự như quyền của người bị buộc tội là cá nhân nhưng có những quy định phù hợp với tư cách của người bị buộc tội là pháp nhân.
Bên cạnh đó, chủ thể phải tuân thủ các nghĩa vụ sau: có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Trường hợp vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì có thể bị dẫn giải; chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Đối với người đại diện khác theo quy định của BLTTHS năm 2015, đó có thể là người đại diện hợp pháp của bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan…, BLTTHS năm 2015 không quy định riêng về quyền và nghĩa vụ của chủ thể này mà quyền và nghĩa vụ của họ được quy định lồng vào điều luật quy định về chủ thể mà họ đại diện. Chẳng hạn, theo các khoản 2, 3, 5 Điều 62 BLTTHS năm 2015, người đại diện hợp pháp của bị hại có quyền như bị hại. Trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị hại hoặc người đại diện của họ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa. Trường hợp bị hại chết, mất tích, bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì người đại diện thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bị hại do luật định. Cơ quan, tổ chức là bị hại có sự chia, tách, sáp nhập, hợp nhất thì người đại diện theo pháp luật hoặc tổ chức, cá nhân kế thừa quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức đó có những quyền và nghĩa vụ theo quy định của BLTTHS năm 2015.