BLTTHS 2015: Bổ sung thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm

Tòa án - Ngày đăng : 07:30, 10/10/2016

Để thống nhất với Luật Tổ chức TAND năm 2014, BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể hơn về thành phần Hội đồng giám đốc thẩm và phạm vi, thẩm quyền xét xử của các Hội đồng này.

Quy định chi tiết hơn về thủ tục phiên tòa giám đốc thẩm

Trong BLTTHS năm 2003: Trên cơ sở quy định 3 cấp Tòa án, Bộ luật quy định TAND cấp tỉnh và TAND tối cao có quyền giám đốc thẩm. Việc giám đốc thẩm được tiến hành bởi toàn thể Ủy ban Thẩm phán hoặc Hội đồng thẩm phán.

BLTTHS năm 2015 quy định: Hội đồng thẩm phán TANDTC giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp cao, Toà án quân sự trung ương bị kháng nghị; Ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp quân khu, Tòa án quân sự khu vực; Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao giám đốc thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp tỉnh, TAND cấp huyện thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ. Quy định thành phần Hội đồng giám đốc thẩm của Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao (Hội đồng gồm 3 Thẩm phán và Hội đồng toàn thể); thành phần Hội đồng giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán TANDTC (Hội đồng gồm 5 Thẩm phán và Hội đồng toàn thể). Đồng thời, quy định cụ thể phạm vi, thẩm quyền xét xử của các Hội đồng này.

Nhằm cụ thể hóa nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm, BLTTHS năm 2015 quy định chi tiết hơn về thủ tục phiên tòa giám đốc thẩm (Điều 386). Theo BLTTHS năm 2003: Một thành viên của Hội đồng giám đốc thẩm trình bày bản thuyết trình về vụ án. Các thành viên của Hội đồng giám đốc thẩm phát biểu ý kiến. Nếu người bị kết án, người bào chữa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị có mặt theo giấy triệu tập thì những người này được trình bày ý kiến rồi đến đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát (Điều 282).

BLTTHS năm 2015 quy định: Các thành viên khác của Hội đồng giám đốc thẩm hỏi thêm Thẩm phán thuyết trình về những điểm chưa rõ trước khi thảo luận và phát biểu ý kiến của mình về việc giải quyết vụ án. Trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị thì Kiểm sát viên trình bày nội dung kháng nghị. Trường hợp người bị kết án, người bào chữa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng nghị có mặt tại phiên tòa thì những người này được trình bày ý kiến về những vấn đề mà Hội đồng giám đốc thẩm yêu cầu. Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về quyết định kháng nghị, việc giải quyết vụ án và tham gia tranh tụng với người tham gia tố tụng về những vấn đề liên quan đến việc giải quyết vụ án. Chủ tọa phiên tòa phải tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, người tham gia tố tụng trình bày hết ý kiến, tranh luận dân chủ, bình đẳng trước Tòa án. Các thành viên Hội đồng giám đốc thẩm phát biểu ý kiến của mình và thảo luận. Hội đồng giám đốc thẩm biểu quyết về việc giải quyết vụ án và công bố quyết định về việc giải quyết vụ án.

 Theo quy định của BLTTHS năm 2003: Hội đồng giám đốc thẩm có quyền: Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật;  Hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án; Hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại.

BLTTHS 2015: Bổ sung thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm

Một phiên tòa hình sự

 BLTTHS năm 2015: Ngoài ba thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm trong Bộ luật hiện hành, BLTTHS năm 2015 bổ sung: Thẩm quyền hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Tòa án cấp cấp dưới đã bị hủy hoặc bị sửa cho đồng bộ với thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm dân sự, hành chính; Thẩm quyền sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.

Quy định này phù hợp với thực tiễn giám đốc thẩm thời gian qua, có những trường hợp chứng cứ đã rõ ràng, có thể khắc phục ngay mà không nhất thiết hủy án để điều tra lại, làm kéo dài thời hạn tố tụng.

 Thủ tục tái thẩm

BLTTHS năm 2015 quy định rõ hơn căn cứ kháng nghị tái thẩm (Điều 398). BLTTHS năm 2003: Những tình tiết được dùng làm căn cứ để kháng nghị tái thẩm là: Lời khai của người làm chứng, kết luận giám định, lời dịch của người phiên dịch có những điểm quan trọng được phát hiện là không đúng sự thật; Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm đã có kết luận không đúng làm cho vụ án bị xét xử sai; Vật chứng, biên bản điều tra, biên bản các hoạt động tố tụng khác hoặc những tài liệu khác trong vụ án bị giả mạo hoặc không đúng sự thật; Những tình tiết khác làm cho việc giải quyết vụ án không đúng sự thật.

 BLTTHS năm 2015 quy định: Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm khi có một trong các căn cứ:  Có căn cứ chứng minh lời khai của người làm chứng, kết luận giám định, kết luận định giá tài sản, lời dịch của người phiên dịch, bản dịch thuật có những điểm quan trọng không đúng sự thật; Có tình tiết mà Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm do không biết được mà kết luận không đúng làm cho bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật không đúng sự thật khách quan của vụ án; Vật chứng, biên bản về hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, biên bản hoạt động tố tụng khác hoặc những chứng cứ, tài liệu, đồ vật khác trong vụ án bị giả mạo hoặc không đúng sự thật; Những tình tiết khác làm cho bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật không đúng sự thật khách quan của vụ án.

Việc thông báo và xác minh những tình tiết mới được phát hiện được quy định đầy đủ và cụ thể hơn  (Điều 399). Theo BLTTHS năm 2003: Người bị kết án, cơ quan, tổ chức và mọi công dân có quyền phát hiện những tình tiết mới của vụ án và báo cho Viện kiểm sát hoặc Tòa án. Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền kháng nghị tái thẩm ra quyết định xác minh những tình tiết đó. Nếu có một trong những căn cứ quy định tại Điều 291 của Bộ luật này thì Viện trưởng Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị tái thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án có thẩm quyền. Nếu không có căn cứ thì Viện trưởng Viện kiểm sát trả lời cho cơ quan, tổ chức hoặc người đã phát hiện biết rõ lý do của việc không kháng nghị.

BLTTHS năm 2015 quy định: Người bị kết án, cơ quan, tổ chức và mọi cá nhân có quyền phát hiện tình tiết mới của vụ án và thông báo kèm theo các tài liệu liên quan cho Viện kiểm sát hoặc Tòa án. Trường hợp Tòa án nhận được thông báo hoặc tự mình phát hiện tình tiết mới của vụ án thì phải thông báo ngay bằng văn bản kèm theo các tài liệu liên quan cho Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền kháng nghị tái thẩm. Viện kiểm sát phải xác minh những tình tiết mới; khi xét thấy cần thiết, Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền kháng nghị tái thẩm yêu cầu Cơ quan điều tra có thẩm quyền xác minh tình tiết mới của vụ án và chuyển kết quả xác minh cho Viện kiểm sát.

Phù hợp với Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, BLTTHS 2015 quy định chính xác hơn về những người có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm (Điều 400). BLTTHS năm 2003 quy định: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án các cấp, trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp dưới. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp huyện. Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự khu vực.

BLTTHS năm 2015 bổ sung và quy định rõ: Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp quân khu, Tòa án quân sự khu vực. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp tỉnh, TAND cấp huyện thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.

Bên cạnh đó, để bảo đảm thống nhất với Bộ luật tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính, BLTTHS năm 2015 bổ sung quy định về thủ tục xem xét lại quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (các điều 404-412). Trong Chương XXVII của Bộ luật quy định rõ về những người có thẩm quyền yêu cầu, kiến nghị, đề nghị xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC; thành phần tham dự phiên họp để xem xét kiến nghị, đề nghị; thủ tục, thời hạn mở phiên họp và thẩm quyền xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; thông báo kết quả phiên họp xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC,

Phương Nam