Bộ luật Tố tụng hình sự 2015: Đổi mới trình tự và trách nhiệm xét hỏi trong phiên toà sơ thẩm

Tòa án - Ngày đăng : 08:00, 22/09/2016

Để phù hợp với thực tiễn, bảo đảm việc giải quyết vụ án được chính xác, khách quan, toàn diện, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 có những quy định mới liên quan đến trình tự tố tụng của phiên toà sơ thẩm.

 Sự có mặt của bị cáo, người bào chữa tại phiên tòa

BLTTHS năm 2015 quy định chặt chẽ sự có mặt của bị cáo, người bào chữa tại phiên tòa (Điều 290 và Điều 291). Theo đó, bị cáo phải có mặt trong suốt thời gian xét xử vụ án. Bổ sung trường hợp Tòa án có thể xét xử vắng mặt bị cáo: Bị cáo đề nghị xét xử vắng mặt và được Hội đồng xét xử chấp nhận; nếu sự vắng mặt của bị cáo không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan và sự vắng mặt của bị cáo không gây trở ngại cho việc xét xử (Điều 290).

Người bào chữa phải có mặt tại phiên tòa để bào chữa cho người mà mình đã nhận bào chữa. Trường hợp người bào chữa vắng mặt lần thứ nhất vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì Tòa án phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa. Nếu người bào chữa vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan hoặc được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử. Đối với trường hợp chỉ định người bào chữa thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử khi người bào chữa vắng mặt trong trường hợp bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa (Điều 291).

BLTTHS năm 2015 bổ sung quy định về sự có mặt của người phiên dịch, người dịch thuật, Điều tra viên và những người khác (Điều 295 và Điều 296). Khi được Tòa án triệu tập, những người sau đây phải có mặt tại phiên tòa: Người phiên dịch, người dịch thuật; Điều tra viên, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thụ lý, giải quyết vụ án; những người khác đến phiên tòa để trình bày các vấn đề liên quan đến vụ án.

BLTTHS năm 2015 cụ thể hóa các trường hợp hoãn phiên tòa và quy định cụ thể các nội dung của quyết định hoãn phiên tòa (Điều 297). Bổ sung các căn cứ hoãn phiên tòa: Cần phải xác minh, thu thập bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật mà không thể thực hiện ngay tại phiên tòa;  Cần tiến hành giám định bổ sung, giám định lại;  Cần định giá tài sản, định giá lại tài sản và nội dung cụ thể của quyết định hoãn phiên toà.

Giới hạn xét xử

Theo BLTTHS năm 2003, Tòa án chỉ xét xử bị cáo theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố (Điều 196). BLTTHS năm 2015 quy định, Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh mà Viện kiểm sát truy tố sau khi đã trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại nhưng Viện kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố. Quy định này nhằm đảm bảo sự độc lập của Tòa án trong xét xử, bảo đảm phán quyết của Tòa án phải trên cơ sở kết quả xét hỏi, tranh tụng và những chứng cứ đã được kiểm tra công khai tại phiên tòa.

Bộ luật Tố tụng hình sự 2015: Đổi mới trình tự và trách nhiệm xét hỏi trong phiên toà sơ thẩm

Một phiên toà hình sự

Nhằm bảo đảm quyền của người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, BLTTHS năm 2015 quy định: Thời hạn chuẩn bị xét xử được tính từ ngày Tòa án thụ lý hồ sơ vụ án thay vì từ ngày phân công Thẩm phán chủ tọa phiên tòa như hiện nay (Điều 277). Bổ sung một số thời hạn nhằm bảo đảm mọi hoạt động tố tụng phải bị ràng buộc về thời hạn như thời hạn nghị án là 7 ngày, kể từ ngày kết thúc tranh luận tại phiên tòa (Điều 326). Cụ thể hóa một số thời hạn có tính định tính trong Bộ luật hiện hành bằng các thời hạn cụ thể (là 24 giờ hoặc 3 ngày kể từ khi ra quyết định), tùy thuộc vào loại quyết định và đối tượng được nhận quyết định như: Tòa án gửi quyết định phân công Thẩm phán làm chủ tọa phiên tòa, quyết định đưa vụ án ra xét xử cho Viện kiểm sát trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định.

Trình tự và trách nhiệm xét hỏi

BLTTHS năm 2003 quy định: Hội đồng xét xử phải xác định đầy đủ các tình tiết về từng sự việc và về từng tội của vụ án theo thứ tự xét hỏi hợp lý. Chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi đến các Hội thẩm, sau đó đến Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự (Điều 207).

Theo BLTTHS năm 2015: Chủ tọa phiên tòa điều hành việc hỏi, quyết định người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý. Chủ tọa phiên tòa hỏi trước sau đó quyết định để Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi. Người định giá tài sản được hỏi về những vấn đề có liên quan đến việc định giá tài sản.

Quy định này để thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm; tăng sự chủ động của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa.

BLTTHS năm 2015 bổ sung cho bị cáo quyền được trực tiếp đặt câu hỏi với các bị cáo khác, bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ, người làm chứng nếu được Chủ tọa đồng ý thay vì đề nghị Chủ tọa hỏi (các Điều 309, 310 và 311).

 BLTTHS năm 2015 bổ sung quy định về nghe, xem nội dung được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh (Điều 313). Trường hợp cần kiểm tra chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án hoặc khi có bị cáo tố cáo bị bức cung, dùng nhục hình, Hội đồng xét xử quyết định cho việc nghe, xem nội dung được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh liên quan tại phiên tòa.

Các nội dung của luận tội được quy định cụ thể hơn trong BLTTHS năm 2015. Nội dung luận tội phải phân tích, đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân và vai trò của bị cáo trong vụ án; tội danh, hình phạt, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; mức bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp; nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án; Đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung bản cáo trạng hoặc kết luận về tội nhẹ hơn; đề nghị mức hình phạt chính, hình phạt bổ sung, biện pháp tư pháp, trách nhiệm bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng;  Kiến nghị các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.

Quy định này nhằm bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử; tăng trách nhiệm của Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong việc luận tội.

Thủ tục tranh luận tại phiên tòa

BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể hơn, đầy đủ hơn (Điều 322): Những người tham gia tố tụng có quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận của mình để đối đáp với Kiểm sát viên về những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân và vai trò của bị cáo trong vụ án; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt; trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp; nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án.

Kiểm sát viên phải đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận để đối đáp đến cùng từng ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa; Hội đồng xét xử phải lắng nghe, ghi nhận đầy đủ ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người tham gia tranh luận tại phiên tòa để đánh giá khách quan, toàn diện sự thật của vụ án. Trường hợp không chấp nhận ý kiến của những người tham gia phiên tòa thì Hội đồng xét xử phải nêu rõ lý do và được ghi trong bản án.

BLTTHS năm 2015 bổ sung các vấn đề của vụ án phải được giải quyết khi nghị án (Điều 326). Việc nghị án phải được tiến hành tại phòng nghị án. Chủ tọa phiên tòa chủ trì việc nghị án, từng vấn đề của vụ án phải được đưa ra để Hội đồng xét xử thảo luận, quyết định.

Theo đó,  bổ sung Các vấn đề của vụ án phải được giải quyết khi nghị án:  Vụ án có thuộc trường hợp tạm đình chỉ hoặc thuộc trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung hay không; tính hợp pháp của những chứng cứ, tài liệu; có hay không có căn cứ kết tội bị cáo. Trường hợp đủ căn cứ kết tội thì phải xác định rõ điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự được áp dụng; hình phạt, biện pháp tư pháp áp dụng đối với bị cáo; trách nhiệm bồi thường thiệt hại; vấn đề dân sự trong vụ án hình sự; bị cáo có thuộc trường hợp miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hay không; án phí hình sự, án phí dân sự; xử lý vật chứng; tài sản bị kê biên, tài khoản bị phong tỏa; tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử; kiến nghị phòng ngừa tội phạm, khắc phục vi phạm.

Trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp thì Hội đồng xét xử có thể quyết định kéo dài thời gian nghị án nhưng không quá 7 ngày kể từ ngày kết thúc tranh luận tại phiên tòa.

 Kết thúc việc nghị án, Hội đồng xét xử phải quyết định một trong các vấn đề: Ra bản án và tuyên án; trở lại việc xét hỏi và tranh luận nếu có tình tiết vụ án chưa được xét hỏi, chưa được làm sáng tỏ; trả hồ sơ vụ án để Viện kiểm sát điều tra bổ sung; yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ; tạm đình chỉ vụ án.

Trường hợp phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm thì Hội đồng xét xử quyết định việc khởi tố vụ án theo quy định tại Điều 18 và Điều 153 của Bộ luật này.

Quy định này phù hợp với thực tiễn, bảo đảm việc giải quyết vụ án được chính xác, khách quan, toàn diện.

Nam Phương