Miễn trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015

Tòa án - Ngày đăng : 08:13, 30/05/2016

So với quy định tại Điều 25 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), Điều 29 BLHS năm 2015 đã quy định về căn cứ miễn trách nhiệm hình sự (TNHS) theo hướng chi tiết và cụ thể hơn.

Miễn trách nhiệm hình sự (TNHS) là một chế định được quy định trong luật hình sự Việt Nam. Tại Điều 29 BLHS năm 2015, các căn cứ miễn TNHS được quy định như sau:

“1. Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong những căn cứ sau đây: a) Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; b) Khi có quyết định đại xá.

2. Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong các căn cứ sau đây: a) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; b) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa; c) Người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận.

3. Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.”

Miễn trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015

 Một phiên tòa hình sự

Miễn TNHS là một trong những chế định phản ánh rõ nét nhất nguyên tắc nhân đạo của chính sách hình sự nói chung và pháp luật hình sự Việt Nam nói riêng. Miễn TNHS do cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền quyết định phải được thể hiện bằng văn bản. Cụ thể, cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra (bằng văn bản) khi có căn cứ quy định tại Điều 16, Điều 29 và khoản 2 Điều 91 BLHS năm 2015; Điều 230 BLTTHS năm 2015. Viện Kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án (bằng văn bản) khi có một trong các căn cứ quy định tại Điều 16, Điều 29 và khoản 2 Điều 91 BLHS năm 2015; Điều 248 BLTTHS năm 2015 hoặc rút quyết định truy tố và đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án theo Điều 285 BLTTHS năm 2015. Tòa án ra quyết định đình chỉ vụ án khi có căn cứ quy định tại Điều 16, Điều 29 và khoản 2 Điều 91 BLHS năm 2015; Điều 282 BLTTHS năm 2015.

Phụ thuộc vào giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng cụ thể, miễn TNHS chỉ được thực hiện bởi một cơ quan tiến hành tố tụng đang thụ lý hồ sơ vụ án. Cụ thể, đó là Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát hoặc Tòa án (các Điều 230, 285 và 282 BLTTHS năm 2015), và tất nhiên phải đáp ứng đầy đủ căn cứ pháp lý và những điều kiện do pháp luật hình sự quy định.

Miễn TNHS luôn gắn liền và quan hệ chặt chẽ với chế định TNHS trong luật hình sự Việt Nam. Khái niệm và cơ sở của miễn TNHS cũng xuất phát từ khái niệm và cơ sở của TNHS. Theo đó, hiểu một cách chung nhất thì trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý bất lợi mà người phạm tội phải chịu do đã thực hiện hành vi phạm tội và được thể hiện bằng việc áp dụng đối với họ một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước do luật hình sự quy định. Còn miễn TNHS có nghĩa không buộc người phạm tội phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi của việc phạm tội đó mà lẽ ra nếu không có đầy đủ căn cứ pháp lý và những điều kiện do luật định để được miễn TNHS, thì người đó phải chịu TNHS theo quy định của pháp luật hình sự.

Ngoài ra, miễn TNHS và TNHS có cùng một cơ sở - đó là, việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm. Trong cả hai trường hợp này, chủ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm đều là người phạm tội. Nói cách khác, chủ thể là người thực hiện tội phạm, có lỗi, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo luật định. Tuy nhiên, người phạm tội là người phải chịu TNHS, còn người được miễn TNHS (cũng là người phạm tội) nhưng trường hợp phạm tội của họ lại có đầy đủ căn cứ pháp lý và những điều kiện để được miễn TNHS theo quy định của pháp luật hình sự.

Điều đó có nghĩa, trường hợp xét thấy không cần phải áp dụng TNHS đối với người phạm tội mà vẫn đảm bảo yêu cầu đấu tranh phòng và chống tội phạm, có căn cứ chứng tỏ khả năng giáo dục, cải tạo nhanh chóng hòa nhập với cộng đồng của người phạm tội, thì các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền cho họ được miễn TNHS.

Người được miễn TNHS đương nhiên không phải chịu các hậu quả pháp lý hình sự bất lợi của việc phạm tội do mình thực hiện (như: Không bị truy cứu TNHS, không phải chịu hình phạt hoặc biện pháp cưỡng chế về hình sự khác, không bị coi là có án tích và không bị coi là có tội). Thực tiễn xét xử cho thấy, người được miễn TNHS vẫn có thể phải chịu một hoặc nhiều biện pháp tác động, như: Buộc phải phục hồi lại tình trạng ban đầu, buộc bồi thường thiệt hại… theo quy định của pháp luật dân sự; phạt tiền, cảnh cáo hoặc buộc thôi việc theo quy định của pháp luật hành chính; đình chỉ hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật lao động hoặc biện pháp kỷ luật…

PV