Những sửa đổi, bổ sung quan trọng trong Luật Tố tụng hành chính năm 2015
Tòa án - Ngày đăng : 06:05, 21/04/2016
Trong Luật Tố tụng hành chính năm 2016, nội dung bồi thường thiệt hại được qui định đầy đủ hơn.
Xác định phần bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính là một phần của bản án hành chính. Trong khoản 2 Điều 7 Luật TTHC quy định như sau: “Trường hợp Tòa án giải quyết cả phần yêu cầu bồi thường thiệt hại cùng với việc giải quyết vụ án hành chính mà phần quyết định của bản án về bồi thường thiệt hại bị kháng cáo hoặc kháng nghị hoặc bị Tòa án cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm hủy để xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm lại thì phần quyết định về bồi thường thiệt hại trong các trường hợp này là một phần của vụ án hành chính. Thủ tục giải quyết đối với phần quyết định về bồi thường thiệt hại bị kháng cáo, kháng nghị hoặc bị hủy để xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm lại được thực hiện theo quy định của Luật này”.
Quy định này đánh giá tài sản, thẩm định giá tài sản. Đây là một quy định mới được quy định tại Điều 91 của Luật TTHC năm 2015 có các nội dung chính là:
Đương sự có quyền cung cấp giá tài sản, thỏa thuận xác định giá tài sản và cung cấp cho Tòa án, có quyền thỏa thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá, cung cấp kết quả thẩm định giá cho Tòa án.
Thẩm quyền của Tòa án trong định giá, thẩm định giá là: Ra quyết định giá tài sản theo yêu cầu của đương sư (một bên hay các bên đương sự). Ra quyết định thành lập Hội đồng định giá.
Định giá tài sản. Trường hợp có căn cứ cho rằng kết quả giả định giá lần đầu không chính xác hoặc không phù hợp với giá thị trường nơi có tài sản định giá, thời điểm định giá được định giá lại.
Việc thẩm định giá tài sản được thực hiện theo quy định của pháp luật về thẩm định giá tài sản.
Về phần sơ thẩm có quy định mới. Về địa điểm mở phiên tòa, theo quy định tại Điểu 159 Luật TTHC thì phiên tòa được tổ chức tại trụ sở Tòa án hoặc có thể ngoài trụ sợ Tòa án.
Hình thức bố trí phòng xử án: Có Quốc huy nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam treo chính giữa phía trên phòng xử án và phía trên chỗ ngồi của Hội đồng xét xử.
Một phiên tòa hành chính
Những trường hợp Hội đồng xét xử sơ thẩm có 2 Thẩm phán và 3 Hội thẩm nhân dân là: Khiếu kiện quyết định hành chính vi phạm hành chính của UBND cấp tỉnh, Chủ tịch UBND cấp tỉnh liên quan đến nhiều đối tượng.
Vụ án phức tạp là vụ án mà người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không tham gia tố tụng với người khởi kiện hoặc với người bị kiện mà họ có yêu cầu độc lập khi có đủ các điều kiện sau đây:
“a. Việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ.”
“b. Yêu cầu độc lập của họ có liên quan đến vụ án đang được giải quyết”.
“c. Yêu cầu độc lập của họ được giải quyết trong cùng một vụ án làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn”.
Thủ tục xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng. Đây là một quy định giải quyết vấn đề phát sinh trong tố tụng hành chính đối với vụ án hành chính mà bên bị kiện là Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, hoặc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thì người khởi kiện và người bị kiện hay có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, làm cho thời gian giải quyết vụ án kéo dài. Giải quyết một thực tế này, Luật TTHC năm 2015 có quy định thủ tục xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng có đủ điều kiện sau đây:
a) Người khởi kiện, người đại diện hợp pháp của người khởi kiện có đơn đề nghị xét xử vắng mặt;
b) Người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người đại diện hợp pháp của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn đề nghị xét xử vắng mặt hoặc đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt;
c) Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn đề nghị xét xử vắng mặt hoặc đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt.
Xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng khi có đủ điều kiện nêu ở trên thì tại Điều 169 Bộ luật TTHC năm 2015 có quy định là: Chủ tọa phiên tòa công bố lý do đương sự vắng mặt hoặc đơn của đương sự đề nghị xét xử vắng mặt. Chủ tọa phiên tòa công bố tóm tắt nội dung vụ án và tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; Hội đồng xét xử thảo luận về những vấn đề cần giải quyết trong vụ án. Viện Kiểm sát phát biểu ý kiến của Viện Kiểm sát. Hội đồng xét xử tiến hành và tuyên án theo quy định của Bộ luật TTHC.
Quy định tạm ngừng phiên tòa. Việc Hội đồng xét xử tạm ngừng phiên tòa được thực hiện trong quá trình xét xử tại phiên tòa mà có một trong các căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 187 Luật TTHC năm 2015 thì Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hành chính có quyền tạm ngừng phiên tòa. Các căn cứ tạm ngừng phiên tòa là:
a) Do tình trạng sức khỏe hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan khác mà người tiến hành tố tụng không thể tiếp tục tiến hành phiên tòa, trừ trường hợp thay thế được người tiến hành tố tụng;
b) Do tình trạng sức khỏe hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan khác mà người tham gia tố tụng không thể tiếp tục tham gia phiên tòa, trừ trường hợp người tham gia tố tụng có yêu cầu xét xử vắng mặt;
c) Cần phải xác minh, thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ mà không thực hiện thì không thể giải quyết được vụ án và không thể thực hiện được ngay tại phiên tòa;
d) Cần phải báo cáo với Chánh án Tòa án có thẩm quyền để đề nghị, kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật theo quy định tại Điều 111 của Luật này;
đ) Các bên đương sự đề nghị Tòa án tạm ngừng phiên tòa để các bên đương sự tự đối thoại;
e) Chờ kết quả giám định bổ sung, giám định lại quy định tại khoản 4 Điều 185 của Luật này.
Ngoài các trường hợp nêu ở trên việc tạm ngừng phiên tòa còn được thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 193 Luật TTHC năm 2015 và thời hạn tạm ngừng phiên tòa không quá 30 ngày, kể từ ngày Hội đồng xét xử quyết định tạm ngừng.
(Còn nữa)