Quy định về “quyền im lặng”: Đảm bảo quyền con người, chống oan sai
Tòa án - Ngày đăng : 14:00, 09/12/2015
Lợi ích kép
Trước đó, trong quá trình thảo luận về BLTTHS sửa đổi, có ý kiến lo ngại nếu quy định quyền im lặng sẽ làm bó tay CQĐT, nghi can sẽ lạm dụng quyền này để kéo dài việc chứng minh tội phạm... Tuy nhiên, theo các chuyên gia, trong nhiều trường hợp, khai báo chính xác cũng là một biện pháp bảo vệ mình, gỡ tội cho chính mình. Do vậy, luật mới quy định im lặng là một quyền của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo chứ không phải nghĩa vụ. Từ đó, các chủ thể này phải biết sử dụng sao cho hợp lý để nó thành công cụ bảo vệ mình. Quyền này cũng không ảnh hưởng gì đến CQĐT vì BLTTHS cũ cũng như BLTTHS 2015 đều quy định trách nhiệm chứng minh tội phạm là của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng. Nghi can có quyền không nói nhưng nếu thu thập đủ các chứng cứ một cách hợp pháp thì họ vẫn bị buộc tội theo đúng luật. Hơn nữa, luật cũng quy định lời khai của bị can, bị cáo chỉ là một trong các chứng cứ, nó không có giá trị là chứng cứ duy nhất buộc tội họ.
Theo quy định mới, nghi can có quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình
Trên thực tế, quyền im lặng chỉ có giá trị với người bị oan, còn nếu hành vi phạm tội thực sự thì vẫn bị kết tội bình thường. Thực hiện tốt quyền này không những không cản trở mà nó còn giúp CQĐT không phải mang tiếng bị nghi ngờ về chuyện bức cung, nhục hình. Như vậy, quyền im lặng đã mang lại lợi ích kép cho cả hai phía chứ không riêng gì nghi can.
Trước khi thông qua BLTTHS 2015, trong báo cáo giải trình tiếp thu ý kiến về dự án luật này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng việc quy định rõ hơn quyền khai báo, trình bày ý kiến của người bị buộc tội như trên là cần thiết. Nó hoàn toàn phù hợp với nội dung của điểm g khoản 3 Điều 14 Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị năm 1966 mà Việt Nam đã tham gia.
Nhiều ý kiến cho rằng, với quy định này, tình trạng bức cung, dùng nhục hình sẽ được khắc phục, giảm thiểu bởi nghi can không phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội. Khi cơ quan công an đã không có cơ sở ép nghi can buộc phải khai thì sẽ không có chuyện ép cung. Nếu điều tra viên dùng nhục hình để ép buộc nghi can khai sai sự thật thì bản cung đó sẽ không được tòa chấp nhận và buộc phải làm lại. Khi nghi can sử dụng quyền này thì CQĐT phải đi chứng minh họ phạm tội bằng chứng cứ chứ không thể chỉ bằng lời cung hoặc mớm cung, bức cung, dùng nhục hình. Như vậy, mục đích muốn điều tra phá án nhanh bằng biện pháp có chủ đích đã không được thỏa mãn. Đó là ý nghĩa của quyền im lặng trong việc chống bức cung, nhục hình, tiền đề dẫn đến oan sai. Nó cũng là tiền đề quan trọng để thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tố tụng.
Xu hướng tiến bộ
Luật sư Trương Trọng Nghĩa (Ủy viên Ủy ban Tư pháp của Quốc hội) cho rằng, phải hiểu “không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội” là quyền con người. Quyền này đã được ghi trong Công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Công ước quốc tế đưa quyền này vào trước hết là để giữ an toàn cho mọi công dân, đương nhiên trong đó có cả những người phạm tội.
Ông Nghĩa cho rằng, điều này cũng phù hợp với nguyên tắc nếu cơ quan điều tra muốn buộc tội một người thì phải đi tìm chứng cứ chứng minh. Mà khi cơ quan điều tra và VKS đã có đủ chứng cứ chứng minh một người phạm tội thì tòa có quyền kết tội cho dù người đó không nhận. Đương nhiên khi là quyền thì việc sử dụng như thế nào là tùy thuộc vào người được hưởng quyền đó.
Việc mở rộng quyền cho những người bị bắt, bị can, bị cáo là một xu hướng tiến bộ trong nền xã hội tiến tới dân chủ, công bằng quyền con người được đề cập cao hơn. Quyền của người bị bắt, bị can, bị cáo được mở rộng hơn cũng là xu hướng tốt. Họ sẽ có cơ hội để tự bảo vệ mình, tránh được những sai sót từ lời khai ban đầu trong điều kiện bị hạn chế quyền công dân. Ở tầm vĩ mô, nhà nước cần tập trung vào việc đào tạo năng lực trình độ cho cả luật sư, điều tra viên, kiểm sát viên và thẩm phán để đảm bảo cho người bị bắt, bị giam, tạm giữ được thực hiện quyền của mình một cách tốt nhất.
Hiến pháp năm 2013 ghi nhận sự đảm bảo quyền con người, quyền công dân thì việc luật hóa “quyền im lặng” cũng là điều tất yếu nhằm thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, các cam kết trong các công ước quốc tế về quyền con người. Thực hiện tốt quyền im lặng còn đảm bảo quyền bào chữa, suy đoán vô tội theo Điều 31 Hiến pháp 2013. Theo đó, người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa.