Dự thảo LTTHC (sửa đổi): Bổ sung thẩm quyền của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm
Tòa án - Ngày đăng : 14:00, 07/11/2015
Chế tài xử lý vi phạm nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ
Về trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền, có ý kiến đề nghị cần có chế tài nghiêm khắc đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu trữ, quản lý chứng cứ nhưng cố tình không cung cấp hoặc trì hoãn việc cung cấp chứng cứ cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự, cho TAND theo yêu cầu của Tòa án.
Theo UBTVQH, Luật TTHC hiện hành đã có quy định về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn cho đương sự, Toà án tài liệu, chứng cứ mà mình đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự, Toà án. Trong trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự, Toà án biết và nêu rõ lý do của việc không cung cấp được tài liệu, chứng cứ. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy có nhiều trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân không cung cấp chứng cứ, gây khó khăn cho đương sự trong việc thu thập chứng cứ, cho Tòa án trong việc giải quyết vụ án. Vì vậy, nhằm khắc phục tình trạng trên, UBTVQH chỉ đạo chỉnh lý Điều 10 dự thảo Luật theo hướng quy định các chế tài xử lý cơ quan, tổ chức, cá nhân vi phạm nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của đương sự, Tòa án.
Về bảo đảm tranh tụng trong tố tụng hành chính, nhiều ý kiến cho rằng dự thảo Luật cần quy định cụ thể hơn về nội dung, quy trình, thủ tục của tranh tụng, tính chất tranh tụng trong từng giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc thẩm, tái thẩm để đảm bảo tính khả thi.
Theo UBTVQH, để tiếp tục thể chế hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức TAND năm 2014 về “bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử”, dự thảo Luật đã có các quy định về bảo đảm tranh tụng trong xét xử (Điều 18), quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng (Chương IV), tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại (Điều 138), tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm (các điều từ Điều 177 đến Điều 191), tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm (Điều 235, Điều 241), những người tham gia phiên tòa giám đốc thẩm (Điều 269)… Các quy định nêu trên là rất cần thiết, bảo đảm thực hiện đầy đủ quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức TAND năm 2014.
Về xem xét, xử lý văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Nghị quyết, Pháp lệnh của UBTVQH, các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án hành chính, nhiều ý kiến đề nghị bổ sung quy định Tòa án có quyền kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét, sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ văn bản quy phạm pháp luật nếu phát hiện văn bản đó có dấu hiệu trái với Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư của các Bộ, Nghị quyết của HĐND các cấp.
UBTVQH đã chỉ đạo chỉnh lý Điều 6, Điều 113 của dự thảo Luật theo hướng bổ sung quy định trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, TAND có quyền kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, xử lý văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của UBTVQH và văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và thủ tục kiến nghị cũng như trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền phải xem xét trả lời TAND… làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án hành chính. Văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên được xác định theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Thẩm quyền của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm
Nhiều ý kiến tán thành với quy định Hội đồng xét xử giám đốc thẩm được quyền sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Một số ý kiến đề nghị giữ như quy định hiện hành, bởi vì giám đốc thẩm không phải là một cấp xét xử.
UBTVQH nhận thấy, qua thực tiễn xét xử giám đốc thẩm vụ án hành chính có những trường hợp bản án, quyết định hành chính bị kháng nghị vì lý do sai sót về án phí, mâu thuẫn giữa nhận định và kết luận trong bản án, sai sót về kỹ thuật… Do Luật TTHC hiện hành không quy định cho Hội đồng xét xử giám đốc thẩm được quyền sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định hành chính để khắc phục ngay các sai phạm đó, mà chỉ quy định cho Hội đồng xét xử giám đốc thẩm được quyền hủy bản án, quyết định bị kháng nghị, giao hồ sơ vụ án cho TAND cấp dưới xét xử lại. Vì vậy, dẫn đến kéo dài việc giải quyết vụ án hành chính không cần thiết, không bảo vệ kịp thời quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự. Tiếp thu ý kiến của ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo chỉnh lý dự thảo Luật quy định Hội đồng xét xử giám đốc thẩm được quyền sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và quy định chặt chẽ các điều kiện để Hội đồng xét xử giám đốc thẩm được sửa bản án, quyết định bị kháng nghị tại Điều 278 của dự thảo Luật.
Về thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định của Hội đồng thẩm phán TANDTC, có ý kiến đề nghị thủ tục đặc biệt của Hội đồng thẩm phán TANDTC không phải là một cấp xét xử vì vậy đề nghị sửa đổi, bổ sung thủ tục này để phù hợp với Hiến pháp và Luật Tổ chức TAND năm 2014. Theo đó HĐTP TANDTC không hủy quyết định của mình và bản án, quyết định có vi phạm pháp luật nghiêm trọng mà chỉ kết luận về hiệu lực của quyết định, bản án và xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
UBTVQH cho rằng Luật TTHC hiện hành (các điều 239 và 240) đã quy định thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định của Hội đồng thẩm phán TANDTC: ”khi có căn cứ xác định quyết định của Hội đồng thẩm phán TANDTC có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc phát hiện tình tiết mới quan trọng có thể làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định mà Hội đồng thẩm phán TANDTC, đương sự không biết được khi ra quyết định đó”, cơ quan, cá nhân có thẩm quyền yêu cầu, kiến nghị xem xét lại quyết định của HĐTP TANDTC và thẩm quyền của HĐTP TANDTC tự mình ra quyết định xem xét lại quyết định có vi phạm pháp luật nghiêm trọng là cần thiết, phù hợp với Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội nhằm bảo vệ và khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức bị xâm hại. Vì vậy, UBTVQH đề nghị giữ nguyên như quy định hiện hành và quy định của dự thảo Luật.
Về trình tự, thủ tục, thẩm quyền xử phạt, mức tiền phạt đối với các hành vi cản trở hoạt động tố tụng hành chính, UBTVQH cho rằng, việc quy định về trình tự, thủ tục, thẩm quyền xử phạt, mức tiền phạt đối với các hành vi cản trở hoạt động tố tụng hành chính trong dự thảo Luật TTHC (sửa đổi) có liên quan chặt chẽ với Luật Xử lý vi phạm hành chính và bảo đảm phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013: “Quyền con người, quyền cơ bản của công dân chỉ bị hạn chế theo quy định của Luật”.
Theo UBTVQH, trong Luật TTHC chỉ nên quy định các hành vi cản trở hoạt động tố tụng hành chính (từ Điều 318 đến Điều 326 Chương XX dự thảo Luật), còn trình tự, thủ tục, thẩm quyền, mức tiền phạt… thì phải tuân theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo chỉnh lý lại Điều 326 theo hướng: “Trình tự thủ tục, thẩm quyền xử phạt, mức tiền phạt cụ thể đối với các hành vi cản trở hoạt động tố tụng hành chính được thực hiện theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính và của pháp luật có liên quan”.