Chủ cơ sở tái chế bao cao su đã qua sử dụng có thể bị truy cứu hình sự

Tư vấn pháp luật - Ngày đăng : 13:20, 23/09/2020

Theo luật sư Ngô Thị Thủy, căn cứ theo quy định của pháp luật, việc chủ cơ tái chế bao cao su đã qua sử dụng là hành vi vi phạm pháp luật, lừa dối người tiêu dùng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Như đã thông tin, ngày 22/9, Tổng cục Quản lý thị trường (QLTT - Bộ Công Thương) cho biết Đội QLTT số 4 thuộc Cục QLTT Bình Dương vừa phối hợp cùng Công an phường Tân Vĩnh Hiệp, thị xã Tân Uyên bất ngờ kiểm tra khu nhà trọ ở địa chỉ tổ 4, đường DX12, khu phố Hóa Nhựt, phường Tân Vĩnh Hiệp, thị xã Tân Uyên, phát hiện số lượng lớn bao cao su đã qua sử dụng đang được tái chế.

Cụ thể, tại thời điểm kiểm tra, lực lượng QLTT đã phát hiện bà Phạm Thị Thanh Ngọc (SN 1987, quê ở Nghệ An) đang gia công tái chế bao cao su đã qua sử dụng, không bao bì, không ghi nhãn.

Chủ cơ sở tái chế bao cao su đã qua sử dụng có thể bị truy cứu hình sự

Hàng nghìn chiếc bao cao su đã qua sử dụng được tái chế để bán ra thị trường

Bước đầu, bà Ngọc không xuất trình được hóa đơn chứng từ chứng minh nguồn gốc hợp pháp của lô hàng và khai nhận, cứ khoảng 30 ngày, bà lại nhận bao cao su đã qua sử dụng từ một người không rõ địa chỉ để súc rửa, phơi khô, phân loại.

Sau đó, bà Ngọc sẽ tái chế như mới và giao hàng đã gia công cho người này.

Lực lượng chức năng phát hiện, thu giữ khoảng 324.000 đơn vị sản phẩm (tương đương với 360 kg) là bao cao su đã qua sử dụng chưa tái chế và đã tái chế.

Nhìn nhận vụ việc dưới góc độ pháp lý, luật sư Ngô Thị Thủy, (Phó trưởng VPLS Interla, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội) cho biết bao cao su là loại hàng hóa được khuyến cáo là sử dụng một lần và không nên tái sử dụng. Việc một số tổ chức, cá nhân, tái sử dụng các bao cao su bằng cách rửa sạch, phơi khô và đóng gói là vi phạm các tiêu chuẩn về sử dụng, lưu hành bao cao su.

Đối với hành vi của chủ cơ sở sản xuất tên Ngọc như đã nêu trên có thể bị truy cứu về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015 nếu số tiền chiếm đoạt được từ 2 triệu đồng trở lên.

Trong trường hợp số tiền chiếm đoạt do hành vi gian dối này dưới 2 triệu thì sẽ bị xử phạt hành chính theo Nghị định 167/2013 về xử phạt hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội. Ngoài ra, cơ quan chức năng tịch thu tiền thu lợi bất chính do phạm tội mà có.

Trường hợp, nếu tổ chức, cá nhân biết rõ loại bao cao su này đã qua sử dụng, không đảm bảo chất lượng an toàn mà bán cho người khác thì tùy vào hành vi cụ thể, người vi phạm có thể bị xử lý hình sự theo điều 198 Bộ Luật hình sự 2015 về tội Lừa dối người tiêu dùng. Mức phạt thấp nhất của hành vi này là phạt tù 1 năm, cao nhất là 5 năm tù.

Trường hợp bao cao su đã qua sử dụng hoặc kém chất lượng, hàng giả, hàng nhái mà trị giá tài sản bán ra từ 30 triệu đồng trở lên thì người vi phạm có thể truy cứu trách nhiệm hình sự theo điều 192, Bộ luật hình sự 2015 về tội mua bán hàng giả. Mức phạt thấp nhất của tội danh này là 5 năm, cao nhất là 15 năm tù.

Luật sư Thủy nhấn mạnh, công dụng chính của bao cao su chính là tránh thai và ngăn ngừa các bệnh lây lan qua đường tình dục. Việc tái chế bằng cách rửa, phơi không không được sự đảm bảo về mặt an toàn, không tuân theo tiêu chuẩn y tế về sự an toàn dẫn đến rủi ro có thể bị lây lan các bệnh qua đường tình dục. Chính vì vậy, chưa cần xét đến các yếu tố về bao bì ,nhãn hiệu của những chiếc bao cao su này thì cũng đã có đủ yếu tố kết luận đó là hàng giả theo quy định của pháp luật.

Điều 192 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 về tội mua bán hàng giả

1. Người nào sản xuất, buôn bán hàng giả thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

d) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

đ) Hàng giả trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng tính theo giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn;

e) Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá từ 150.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng trong trường hợp không xác định được giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn;

g) Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

h) Làm chết người;i) Gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên;

k) Gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;

l) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng;

m) Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa và ngược lại;n) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm

:a) Hàng giả có giá thành sản xuất 100.000.000 đồng trở lên;

b) Hàng giả có giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn từ 200.000.000 đồng trở lên;

c) Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá từ 500.000.000 đồng trở lên trong trường hợp không xác định được giá thành sản xuất, giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn;

d) Thu lợi bất chính 500.000.000 đồng trở lên;

đ) Làm chết 02 người trở lên;e) Gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên, với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;

g) Gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 122% trở lên;

h) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.

4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

5. Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau:

a) Pháp nhân thương mại phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng;

b) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ 3.000.000.000 đồng đến 6.000.000.000 đồng;

c) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này, thì bị phạt tiền từ 6.000.000.000 đồng đến 9.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 03 năm;

d) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 79 của Bộ luật này, thì bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn;

đ) Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.

Như Loan