Thảo luận về một số vấn đề lớn còn có ý kiến khác nhau của dự án Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi)
Chính trị - Ngày đăng : 07:58, 15/07/2014
Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu phát biểu tại phiên họp. Ảnh: TTXVN
Qua thảo luận, đa số thành viên Ủy ban thường vụ Quốc hội cơ bản tán thành với Báo cáo Ủy ban Tư pháp về một số vấn đề lớn của dự thảo Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) và cho rằng dự thảo Luật đã tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội tại kỳ họp thứ 7 vừa qua.
Thảo luận về "quyền tư pháp", các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị ban soạn thảo cần làm rõ khái niệm “quyền tư pháp”, đồng thời cần rà soát lại các nội dung quy định “quyền tư pháp” của Tòa án nhân dân để bảo đảm đầy đủ, chính xác. Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cho rằng "quyền tư pháp" được hình thành từ việc xét xử và do xét xử mà có, do đó, quy định cụ thể, rõ ràng những nội dung về "quyền tư pháp" của Tòa án nhân dân.
Cơ bản tán thành với báo cáo của Ủy ban Tư pháp, Phó Chủ tịch Quốc hội Tòng Thị Phóng lưu ý, ban soạn thảo phải quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân làm đúng với tinh thần của Hiến pháp năm 2013. Trong đó, Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) cần quy định rõ về “quyền tư pháp” và làm những nhiệm vụ cụ thể.
Theo Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Phan Trung Lý, Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) chỉ nên coi là thực hiện “quyền tư pháp” đối với điểm a khoản 2, Điều 2: “Nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh – thương mại, lao động, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật; xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong quá trình tố tụng; ra bản án, quyết định việc phạm tội, áp dụng hình phạt, quyền và nghĩa vụ về tài sản, quyền nhân thân...” Còn các điểm khác của khoản 2 Điều 2 không nên coi đó là thực hiện “quyền tư pháp”.
Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội Trương Thị Mai thì đề nghị, ban soạn thảo tiếp tục nghiên cứu làm sao “quyền tư pháp” đáp ứng được yêu cầu của Tòa án và theo tinh thần Kết luận số 92 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Chánh án TANDTC Trương Hòa Bình phát biểu tại phiên họp. Ảnh:TTXVN
Cho ý kiến việc tổ chức Tòa án nhân dân sơ thẩm trong hệ thống Tòa án nhân dân, đa số thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội tán thành với phương án thành lập Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực để thể chế hóa Nghị quyết số 49-NQ/TW và Kết luận số 79-KL/TW của Bộ Chính trị góp phần khắc phục những hạn chế, bất cập trong tổ chức cũng như hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện hiện nay, đồng thời tăng cường tính độc lập của Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực trong xét xử, tập trung đầu tư cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ tránh dàn trải bình quân lãng phí. Theo đó, tổ chức Tòa án nhân dân gồm 4 cấp như quy định của dự thảo Luật, gồm: Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tòa án sơ thẩm khu vực.
Về nhiệm vụ phát triển án lệ của Tòa án nhân dân tối cao, nhiều thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội tán thành với quy định của dự thảo Luật là Tòa án nhân dân tối cao có thẩm quyền phát triển án lệ. Tuy nhiên, cần tiếp tục làm rõ “án lệ” là gì? giá trị pháp lý của án lệ; các tiêu chí, điều kiện, thủ tục lựa chọn, công bố án lệ cũng như việc thay đổi, hủy bỏ án lệ. Mặt khác, ban soạn thảo cũng cần diễn đạt lại điều này sao cho hợp lý và phải có hướng dẫn cụ thể trong xét xử, bảo đảm việc áp dụng thống nhất pháp luật.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng nhấn mạnh: Việc phát triển án lệ cần tuân thủ theo đúng nguyên tắc pháp luật và phải có hướng dẫn cụ thể trong việc áp dụng đối với các bản án khác. Ban soạn thảo cần quy định rõ án lệ áp dụng như thế nào, chứ không được quy định chung chung và đối với những vụ án, loại án nào thì áp dụng án lệ.
Liên quan đến các ngạch Thẩm phán, đa số thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội tán thành với quy định Thẩm phán có 4 ngạch (Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán cao cấp, Thẩm phán trung cấp và Thẩm phán sơ cấp) và cho rằng: Quy định như vậy phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành về cán bộ, công chức và các ngạch công chức, đồng thời phù hợp với cơ chế tuyển chọn khi được bổ nhiệm lần đầu hoặc nâng ngạch Thẩm phán và tổ chức Tòa án nhân dân 4 cấp.
Đối với nhiệm kỳ của Thẩm phán, nhiều ý kiến tán thành với phương án Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao được bổ nhiệm không kỳ hạn cho đến khi nghỉ hưu hoặc chuyển công tác khác. Đối với Thẩm phán cấp khác là 5 năm, nếu được tái bổ nhiệm thì nhiệm kỳ tiếp theo trong thời hạn 10 năm là cần thiết, nhằm bảo đảm thận trọng, khách quan trong đánh giá, bổ nhiệm cán bộ, tạo động lực phấn đấu, rèn luyện, nâng cao trình độ, phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm của Thẩm phán trong thực thi công vụ.
Cũng trong chiều nay, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thảo luận về một số vấn đề lớn còn có ý kiến khác nhau của dự thảo Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi).
Nguyễn Cường