Xôn xao vụ đầu tư trăm triệu USD vào ứng dụng gọi xe FaceCar
Đời sống - Ngày đăng : 19:16, 12/07/2020
Theo App Annie xếp hạng ngày 4/3/2017, FaceCar chỉ xếp sau Grab và Uber đối với mảng ứng dụng đặt xe. Tuy nhiên, ứng dụng FaceCar chỉ thực sự được “nóng” lên hơn bao giờ hết khi bất ngờ xuất hiện thông tin một nhà đầu tư từ Đức quyết định đầu tư 400 triệu USD trong 6 tháng cho công tác hoàn thiện hạ tầng, giải pháp công nghệ, xây dựng bộ máy hoạt động và thương hiệu; 20% được giải ngân trong 4 tháng tiếp theo…
Thương vụ FaceCar này càng trở thành cú hích cho các nhà khởi nghiệp 4.0 khi thông tin quá trình thương lượng này được hãng tin Bloomberg xác nhận.
Hãng tin lớn hàng đầu nước Mỹ này đã đưa tin FaceCar- một ứng dụng Việt Nam lên hệ thống terminal tại phần tin tức dành riêng cho giới tài chính toàn cầu với 350.000 tài khoản VIP. Theo Bloomberg, khoản đầu tư giải đoạn đầu khoảng 400 triệu USD sẽ được giải ngân cho FaceCar để đối đầu với những ông lớn như Uber, Grab trên thị trường Việt Nam, trước khi đưa FaceCar ra các thị trường quốc tế khác gồm Indonesia, Malaysia, Thái Lan và Philippines.
Tuy nhiên, ngay lúc sự việc tưởng chừng rất tốt đẹp, thì trên Facebook cá nhân của ông Trần Thành Nam, đã xuất hiện các thông tin do ông này đưa ra. Theo đó, nội dung được cho rằng phía nhà đầu tư Đức đã lừa đảo, và hoàn toàn không có bất kỳ kế hoạch khả thi cho việc đầu tư và phát triển FaceCar. Dòng status này ngay lập tức khiến cộng đồng khởi nghiệp 4.0 xôn xao. Thế nhưng sau đó, ông Trần Thành Nam đã xóa status này trên Facebook của mình.
FaceCar vốn là phần mềm ứng dụng gọi xe qua smartphone
Theo nhà đầu tư đến từ Đức, những thông tin “đăng lên rồi rút xuống” của ông Trần Thanh Nam kể trên khiến họ bị tổn thất về danh dự, tài chính, kế hoạch kinh doanh trong thời điểm họ vừa gia nhập lĩnh vực công nghệ 4.0.
Nhà đầu tư đến từ Đức cũng cho rằng, thông tin ông Trần Thành Nam là chủ của FaceCar là không chính xác.
Dẫn chứng từ nhà đầu tư đến Đức cho thấy, theo giấy chứng nhận đăng kí doanh nghiệp được cấp bởi Sở KH&ĐT TPHCM, thành viên góp vốn của Công ty TNHH Ứng dụng Công nghệ FaceCar là ông N.Á.D với 51% cổ phần và bà H.T.N với 49% cổ phần.
Theo nhà đầu tư đến Đức, ngay từ thời điểm kêu gọi hợp tác, ông Trần Thành Nam không được xem là người sở hữu hợp pháp của ứng dụng FaceCar.
Luật sư Nguyễn Hữu Hưng, đoàn Luật sư TPHCM, cho biết nếu ứng dụng FaceCar chưa được chuyển nhượng cho công ty TNHH FaceCar, trở thành tài sản do công ty này quản lý và khai thác, thì thực ra FaceCar là ứng dụng đang hoạt động chưa được pháp luật Việt Nam bảo hộ. Như vậy, giấy phép này, nếu có, sẽ được cấp cho công ty TNHH Ứng dụng công nghệ FaceCar chứ không phải ứng dụng FaceCar.
Trường hợp thứ 2, nếu ứng dụng FaceCar đã được chuyển nhượng trở thành tài sản do công ty TNHH Ứng dụng công nghệ FaceCar quản lý và khai thác thì người có trách nhiệm quản lý, sở hữu ứng dụng phải là công ty này, tức là ông N.Á.D với 51% cổ phần và bà H.T.N với 49% cổ phần. Vì vậy, ông Trần Thành Nam không có bất kỳ pháp nhân nào để tiến hành kêu gọi, thương lượng, thỏa thuận liên quan FaceCar, càng không có đủ tư cách để kết luận phía nhà đầu tư lừa đảo cá nhân mình.
Bằng chứng là mới đây, các thành viên góp vốn này cũng đã chuyển giao ứng dụng FaceCar cho các đối tác khác và đối tác mua lại đã đổi thành tên mới.
Đại diện của nhà đầu tư người Đức ở Việt Nam cho biết, năm 2016 cả hai bên chỉ cùng bàn thảo về việc hợp tác đầu tư phát triển dự án FaceCar tại Việt Nam nhưng chỉ dừng lại ở mức độ thẩm định, khảo sát dự án. Ngay cả công ty quản lý dự án, đối tác cũng chưa thành lập.
“Tuy nhiên, sau khi tìm hiểu và thấy ông Trần Thành Nam không đủ tư cách pháp lý là chủ sở hữu của thương hiệu FaceCar nên chúng tôi đã ngừng hợp tác với ông Nam và chuyển qua hỗ trợ những dự án khởi nghiệp khác”- đại diện nhà đầu tư Đức cho hay.
Vụ việc cho thấy cần có hệ thống pháp luật để bảo vệ nhà đầu tư trong tiến trình tìm hiểu, rót vốn, triển khai việc góp vốn, nhằm tránh vừa bị mất tiền, bị hủy hoại danh dự. Cụ thể, trong trường hợp không thuận mua vừa bán thì những phát ngôn nào của đôi bên được kiểm soát, tránh tiết lộ bí mật kinh doanh, tung tin gây hoang mang cổ đông để chuyển quyền sở hữu cho đối tác khác nếu thỏa thuận được giá cao, cử đại diện không đủ pháp nhân để thương lượng nhằm thuận lợi nếu muốn hủy hợp đồng, đẩy giá lên cao, đánh bóng tên tuổi để tạo sự cạnh tranh không lành mạnh trong đàm phán.