Phía sau phiên tòa tranh chấp tài sản ly hôn
Ký sự pháp đình - Ngày đăng : 10:40, 11/04/2020
Vợ nằm viện, chồng tự ý bán nhà
Anh C.Đ.T (quê ở Bắc Giang) và chị T.T.T.Nh. (trú tại Gia Lâm, Hà Nội) nên duyên vợ chồng vào năm 2011 sau một thời gian dài tìm hiểu.
Hai vợ chồng đều dạy học, cuộc sống ổn định. Trong thời gian chung sống, cả hai dành dụm mua được căn chung cư tại khu đô thị Greenstar (phường Cổ Nhuế 1, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội).
Nhiều năm sinh sống nhưng không có con chung, anh chị bắt đầu phát sinh những mâu thuẫn, cãi vã, bất đồng quan điểm ngày càng lớn. Sau khoảng 6 năm “chung chăn chung gối” người chồng đệ đơn ra tòa yêu cầu ly hôn đơn phương.
Tại TAND huyện Gia Lâm anh T. có khai hai vợ chồng không có tài sản gì chung ngoài 02 cái nhẫn cưới và 02 xe máy cũ. Do vậy tranh chấp tài sản bắt đầu nảy sinh và việc giải quyết ly hôn và chia tài sản được chuyển đến TAND quận Bắc Từ Liêm nơi có tài sản chung.
Theo bản án sơ thẩm của TAND quận Bắc Từ Liêm, tại phiên tòa, anh T. khai vợ chồng có tài sản chung là căn hộ số 612, tại khu đô thị Greenstar (phường Cổ Nhuế 1, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội) được mua với tổng số tiền là 1,8 tỷ đồng. Thời điểm mua nhà, hai vợ chồng có hơn 500 triệu nên phải thế chấp căn hộ để vay ngân hàng với số tiền 1,2 tỷ đồng.
Anh T. khai do chị Nh. thường xuyên phải đi chữa bệnh nên anh là đứng tên căn hộ. Sau đó, do không có khả năng trả nợ nên đã thống nhất bán căn hộ trên cho người khác với số tiền 1,8 tỷ đồng. Số tiền bán nhà, anh T. tất toán trả ngân hàng. Sau khi đối trừ tiền vay, anh xác định vợ chồng có tài sản chung là 830 triệu đồng.
Tuy nhiên, chị Nh. cho rằng, anh T. đã gian dối trong việc kê khai về tài sản chung và công nợ chung của hai vợ chồng trong thời gian chung sống.
Theo chị Nh., trong thời gian chị điều trị tại bệnh viện, anh T. đã làm giả một số giấy tờ để bán căn hộ cho cô ruột và chú rể anh T. là ông N.V.T và bà C.T.T ở Bắc Giang. Căn nhà là tài sản chung của hai vợ chồng, nhưng khi bán chị không hề hay biết.
Ngoài ra, chị Nh. trình bày ngoài căn hộ số 612, khu đô thị Greenstar phường Cổ Nhuế 1, quận Bắc Từ Liêm tài sản chung của hai vợ chồng còn có 01 thửa đất tại Tân Tây Đô (xã Tân Lập, Đan Phượng, Hà Nội) anh T. nhờ bố đẻ đứng tên. Bên cạnh đó, số nợ chung của cả hai vợ chồng là 205 triệu do chị Nh. có vay của 3 người khác. Các khoản vay này thông qua hình thức chuyển khoản và tiền mặt.
Có sự mâu thuẫn trong lời khai
Sau khi căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã thu thập, HĐXX TAND quận Bắc Từ Liêm cho rằng có sự mâu thuẫn trong lời khai của anh T, chị Nh.
Về căn hộ số 612, khu đô thị Greenstar phường Cổ Nhuế 1, HĐXX cho biết, theo xác nhận của Ngân hàng: Ngày 23/10/2015 anh T. ký Hợp đồng mua bán căn hộ trên với giá 1,8 tỷ đồng. Khi mua anh phải thanh toán trước số tiền tương tướng với 30% giá trị hợp đồng là 549 triệu đồng.
Đến ngày 16/11/2015, anh T. đã ký hợp đồng tín dụng số 5598/15/TD/II.24 để vay số tiền 1,2 tỷ đồng và dùng chính căn hộ trên để thế chấp và trả trong vòng 20 năm.
Ngày 17/8/2017, anh T. đã làm thủ tục Hợp đồng trước hạn, thanh toán cho Ngân hàng số tiền gốc là hơn 900 triệu đồng. Đến nay căn hộ anh T. đã chuyển nhượng cho người khác với giá là 1,8 tỷ đồng. Nên tài sản chung của anh T. chị Nh. đến nay được xác định là số tiền còn lại sau khi đối trừ tất toán Hợp đồng tại Ngân hàng với số tiền bán căn hộ là 830 triệu đồng.
HĐXX xem xét công sức của anh T và chị Nh là như nhau nên chia cho mỗi người được hưởng 1 nửa số tiền trên. Tại phiên tòa, anh T. đã tự nguyện thanh toán cho chị Nh. số tiền 650 triệu đồng khi vợ chồng ly hôn, anh chỉ nhận 180 tiệu đồng.
Về thửa đất tại Tân Tây Đô và các khoản vay nợ chung của cả hai vợ chồng như chị Nh. trình bày tại phiên tòa, HĐXX cho rằng không có căn cứ để xác định đó là tài sản chung và nợ chung của cả hai vợ chồng.
Căn cứ vào hồ sơ vụ việc, HĐXX quyết định cho anh T. được ly hôn chị Nh. Đồng thời xác nhận hai người có tài sản chung là 830 triệu đồng sau khi bán căn hộ số 612, tòa nhà 27A3, khu đô thị Greenstar phường Cổ Nhuế 1.
Ghi nhận sự tự nguyện của anh T. thanh toán cho chị Nh. số tiền 650 triệu đồng, anh toàn được hưởng 180 triệu đồng. Do anh T. quản lý tiền bán nhà nên phải có trách nhiệm trả cho chị Nh. số tiền trên.
Giao dịch mua bán căn hộ là giao dịch dân sự vô hiệu
Không đồng ý với bản án sơ thẩm của TAND quận Bắc Từ Liêm, chị Nh. đã có đơn kháng cáo toàn bộ bản án và đã được tòa phúc thẩm chấp nhận.
Bản án phúc thẩm của TAND thành phố Hà Nội quyết định giao dịch mua bán căn hộ là giao dịch dân sự vô hiệu
Tại bản án phúc thẩm số 86/2019/HNGĐ-PT ngày 27/5/2019 của TAND thành phố Hà Nội, HĐXX xác định, căn cứ vào điều 122,123 bộ luật dân sự 2015 thì hợp đồng chuyển nhượng căn hộ giữa anh T. và vợ chồng ông N.VT, bà C.T.T là giao dịch dân sự vô hiệu nên không thể công nhận giao dịch này có hiệu lực để xác định tài sản chung của hai vợ chồng là số tiền bán căn hộ. Như vậy sẽ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của chị Nh.
Ngoài ra, tại phiên tòa phúc thẩm, chị Nh. cũng yêu cầu chia tài sản chung là căn hộ hộ số 612, tòa nhà 27A3, khu đô thị Greenstar phường Cổ Nhuế 1 chứ không phải số tiền bán căn hộ.
“HĐXX cấp phúc thẩm xem xét, đánh giá về hợp đồng vô hiệu cũng như giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu theo điều 131 bộ luật dân sự bởi giao dịch đó không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm được xác lập và phải đưa chủ thể của các giao dịch như ông N.V.T, bà C.T.T, và Văn phòng công chứng gia vụ án với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan”, bản án của TAND thành phố Hà Nội nhấn mạnh.
HĐXX cũng cho rằng, nếu chỉ chia số tiền còn lại sau khi đối trừ khoản tất toán hợp đồng tại Ngân hàng với số tiền bán căn hộ sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của chủ sản mà HĐXX phúc thẩm không thể khắc phục được.
Do đó, HĐXX cấp phúc thẩm đã quyết định hủy một phần bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 41/2018/HNGĐ- ST ngày 16/10/2018 của TAND quận Bắc Từ Liêm về tài sản chung vợ chồng. Giao hồ sơ vụ án cho TAND quận Bắc Từ Liêm giải quyết lại theo trình tự sơ thẩm về phần tài sản.
Sau khi TAND thành phố Hà Nội tuyên hủy một phần bản án sơ thẩm về tranh chấp tài sản chung, chị Nh. đã gửi đơn tố cáo hành vi làm giả hồ sơ giấy tờ của chồng đến Cơ quan Công an quận Bắc Từ Liêm, VKSND quận Bắc Từ Liêm để điều tra, làm rõ.