Tòa án huyện Nhơn Trạch bác yêu cầu khởi kiện là có căn cứ

Pháp luật - Ngày đăng : 09:24, 25/08/2014

Ngày 11/7/2014, TAND huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm vụ án dân sự tranh chấp QSĐD giữa nguyên đơn bà Lê Thị Mỹ với các bị đơn là vợ chồng ông Nguyễn Xuân Phong, Trần Thị Lan.

Tòa án đã ra bản án dân sự sơ thẩm số 35/2014/DS-ST, phán quyết bác yêu cầu khởi kiện của bà Mỹ đối với các bị đơn: ông Phong, bà Lan. Giành quyền khởi kiện cho bà Mỹ đối với ông Nguyễn Thanh Quang khi có yêu cầu. Hai nội dung phán quyết này đã tạo sự chú ý của những người quan tâm đến vụ án hơn 10 năm qua và cho rằng đây là phán quyết khách quan và dũng cảm.

Việc mua bán đất trái pháp luật

Cội nguồn vụ án bắt đầu từ việc năm 1989, bà Mỹ nhờ ông Nguyễn Thanh Quang mua giúp 2ha đất thuộc xã Vĩnh Thanh, ông Quang mua được đất, bà Mỹ thuê ông Quang trồng cây bạch đàn và chăm sóc cây. Tuy nhiên, sau khi trồng cây xong bà Mỹ không trả đủ tiền, còn nợ ông Quang 50.000 đồng. Ông Quang đòi nợ nhiều lần nhưng bà Mỹ không trả nên ngày 6/6/1991 ông Quang sang nhượng 2ha đất đó cho vợ chồng ông Phong bà Lan.

Sự vụ này bà Mỹ đã khiếu nại đến VKS huyện Long Thành yêu cầu giải quyết buộc ông Quang trả lại giá trị quyền sử dụng 2ha đất. Ngày 19/5/1992, VKS huyện Long Thành đã hòa giải và có kết quả là bà Mỹ, ông Quang thỏa thuận với nhau là ông Quang trả bà Mỹ tiền mua đất, tiền công cày, tiền mua cây giống. Sau khi trừ số tiền mà bà Mỹ nợ ông Quang thì ông Quang phải trả bà Mỹ số tiền quy ra vàng là 5,5 chỉ vàng 24k. Sự thỏa thuận này được VKS huyện Long Thành lập thành văn bản để làm cơ sở pháp lý cho bà Mỹ, ông Quang thực hiện.

Tòa án huyện Nhơn Trạch bác yêu cầu khởi kiện là có căn cứ

Bà Lan bên vườn cao su bị tranh chấp

Việc bà Mỹ thỏa thuận với ông Quang với nội dung trên là bước đi vừa lấy được tiền, vừa tốn ít công sức và chứng tỏ là người tôn trọng pháp luật. Vì có kiện ra Tòa án thì kết quả cũng như vậy. Bởi lẽ, vào năm 1992 Luật Đất đai năm 1987 đang có hiệu lực thi hành. Tại Điều 5 Luật Đất đai này: “Nghiêm cấm việc mua bán lấn chiếm đất đai…”.Có nghĩa là Nhà nước không công nhận ông Quang mua giúp bà Mỹ 2ha đất. Do ông Quang khó khăn về kinh tế nên ông Quang chưa trả được 5,5 chỉ vàng cho bà Mỹ như đã thỏa thuận. Đến năm 1998 bà Mỹ chuyển hướng không đòi ông Quang trả 5,5 chỉ vàng mà đòi vợ chồng ông Phong bà Lan trả lại 2ha đất trong số 4 ha đất ông Quang chuyển nhượng cho vợ chồng ông Phong bà Lan.

Đòi tài sản nhầm đối tượng

Đơn khởi kiện vụ án dân sự của bà Mỹ được Tòa án thụ lý đã giải quyết. Trong các tài liệu chứng cứ mà Tòa án thu nhận, có văn bản ngày 19/5/1992 do VKS huyện Long Thành lập về sự thỏa thuận giữa và Mỹ với ông Quang là ông Quang phải trả bà Mỹ 5,5 chỉ vàng. Nhưng đến phiên tòa ngày 11/7/2014, nghĩa sau 16 năm, kể từ ngày bà Mỹ khởi kiện vụ án (1998) chứng  cứ này mới được HĐXX của Tòa án huyện Nhơn Trạch xác định văn bản ngày 19/5/1992 là chứng cứ hợp pháp chứng minh rằng 2ha đất mà bà Mỹ yêu cầu Tòa án giải quyết là không có, vì 2ha đất đó đã được tính thành tiền trong văn bản ngày 19/5/1992 mà bà Mỹ thỏa thuận nhận 5,5 chỉ vàng từ ông Quang. Có nghĩa là giá trị 2ha đất của bà Mỹ đã được giải quyết xong cách đây 22 năm, kể từ năm 1992 và cũng đồng nghĩa với việc bà Mỹ không có 2ha đất trong 4ha đất của vợ chồng ông Phong bà Lan mà bà Mỹ yêu cầu Tòa án giải quyết.

Phán quyết của Tòa án huyện Nhơn Trạch tại phiên tòa ngày 11/7/2014 là bác yêu cầu khởi kiện của bà Mỹ đối với vợ chồng ông Phong bà Lan đã đem lại lòng tin của người dân vào công lý, vì trước đó các cấp Tòa án ở tỉnh Đồng Nai không xem xét đến văn bản này và bỏ qua các lời khai của ông Quang về văn bản ngày 19/5/1992 là sự thật khách quan để đưa ra phán quyết có lợi cho bà Mỹ làm cho nhiều cơ quan ở tỉnh Đồng Nai và trung ương phải vào cuộc để làm rõ sự thật khách quan của vụ án.

Một sự thật khách quan của vụ án mà sau 16 năm mới được nhận biết ra là điều làm nhiều người quan tâm đến vụ án phải suy nghĩ và bản án sơ thẩm số 35/2014/DS-ST ngày 11/7/2014 của Tòa án huyện Nhơn Trạch cũng có nội dung khó hiểu là vụ án thụ lý ngày 19/2/2013 nhưng đến 22/5/2014 nguyên đơn là bà Mỹ mới nộp tiền tạm ứng án phí (biên lai thu số 002690) nghĩa là thực hiện quy trình ngược với quy định tại Điều 171 Bộ luật Tố tụng Dân sự, nhưng vẫn được VKS cùng cấp cho thông Tòa.

Tuy nhiên trong cái rủi lại có cái may, đó là bản án dân sự sơ thẩm số 35/2014/DS-ST ngày 11/7/2014 của Tòa án huyện Nhơn Trạch là dấu chấm dứt việc giải quyết vụ án và có thể đi vào bộ giáo khoa về đánh giá chứng cứ của Tòa án.

Lý Minh