Bài 6- Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án góp phần hoàn thiện thể chế pháp luật

Tiêu điểm - Ngày đăng : 10:40, 26/10/2018

Xây dựng cơ sở pháp lý đồng bộ, khả thi, hiệu quả, nhằm nâng cao chất lượng hòa giải, đối thoại các vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính là nội dung xuyên suốt của dự thảo Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án.

Dự án Luật này khi được Quốc hội thông qua sẽ là giải pháp hữu hiệu, là một trong những ưu việt lớn nhất của chế định hòa giải, đối thoại, đáp ứng được các yêu cầu đặt ra trong việc hoàn thiện thể chế pháp luật và cải cách tư pháp theo chủ trương của Đảng và Nhà nước.

Các bên được quyền tự quyết định việc giải quyết tranh chấp

Theo truyền thống của người Việt Nam, việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án luôn là lựa chọn bất đắc dĩ, là biện pháp cuối cùng. Bởi lẽ, hầu hết các bên trong tranh chấp dân sự là những người có quan hệ huyết thống, bạn bè, kinh doanh. Người Việt có câu ngạn ngữ “Vô phúc đáo tụng đình”, hay “Một đời kiện, chín đời thù” đã thể hiện quan điểm của người dân coi chuyện ra tòa là một cái gì đó ghê gớm, làm tổn hại thanh danh và sứt mẻ tình cảm. Tại Tòa án, tranh chấp được giải quyết theo phán quyết của Nhà nước nhưng thường mâu thuẫn vẫn tồn tại do có bên thắng, bên thua. Ngược lại, hòa giải, đối thoại sẽ giúp các bên được quyền tự quyết định việc giải quyết tranh chấp của mình; tìm được tiếng nói chung để giải quyết, xoa dịu mâu thuẫn; hạn chế việc phải đưa tranh chấp, khiếu kiện ra xét xử tại Tòa án, từ đó tiết kiệm được thời gian, công sức của Nhà nước và các bên.

Truyền thống trọng tình hơn lý là một cách giải quyết tranh chấp nhanh nhất; vì vậy việc khởi kiện ra Tòa án để phân định đúng sai, lẽ phải không phải là cách lựa chọn hàng đầu của người dân. Với tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái và tình nghĩa được coi trọng thì hòa giải, đối thoại là cơ hội để các bên sửa sai. Khi hòa giải, các bên được bày tỏ một cách thoải mái về suy nghĩ, điều kiện, hoàn cảnh; giúp cho các đương sự hiểu, thông cảm với nhau, giảm bớt mâu thuẫn, tranh chấp; từ đó, thiện chí, hợp tác khi giải quyết tranh chấp, ngăn ngừa tội phạm có nguồn gốc từ tranh chấp, khiếu kiện. Hòa giải, đối thoại thành sẽ hàn gắn và khôi phục tình cảm giữa các bên tranh chấp, khiếu kiện, củng cố khối đại đoàn kết trong nhân dân, phát triển văn hóa giải quyết tranh chấp thiện chí, hợp tác. Do vậy, Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án sẽ tạo thêm một cơ chế để các bên tự nguyện hòa giải, đối thoại nhằm giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp dân sự, hành chính hiệu quả hơn.

Bài 6- Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án góp phần hoàn thiện thể chế pháp luật

 Ban Chỉ đạo Đề án đổi mới hòa giải, đối thoại tại Tòa án họp đóng góp ý kiến vào Dự án Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án

Thủ tục hòa giải, đối thoại được tiến hành linh hoạt, đơn giản

Theo quy định của pháp luật TTDS, TTHC hiện nay thì trình tự, thủ tục hòa giải, đối thoại bị đánh giá là cứng nhắc, không linh hoạt dẫn đến hạn chế hiệu quả của việc hòa giải, đối thoại. Khi xây dựng Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án, cơ quan soạn thảo (TANDTC) đã lựa chọn giải pháp giải quyết tranh chấp, khiếu kiện một cách nhanh chóng, hiệu quả, triệt để, tôn trọng sự lựa chọn của các bên, phát huy khả năng làm việc độc lập của hòa giải viên, đối thoại viên với phương thức, thủ tục hòa giải, đối thoại linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tế, đặc điểm của mỗi loại vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính. Trình tự, thủ tục hòa giải, đối thoại phải tuân theo quy định của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án.

Hòa giải, đối thoại tại Tòa án theo dự án Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án là hoạt động đặc thù so với hòa giải trong tố tụng hoặc hòa giải ngoài tố tụng khác. Đây là chế định được kỳ vọng đặt ra nhằm khắc phục được những hạn chế về sự cứng nhắc của hòa giải trong tố tụng, sự kém hiệu quả của hòa giải ngoài tố tụng khác; phát huy được những ưu điểm về hiệu lực thi hành qua quyết định công nhận kết quả hòa giải của Tòa án. Chính vì vậy, việc hòa giải, đối thoại tại Tòa án có đặc thù khác biệt với hoạt động xét xử. Xét xử là căn cứ vào tài liệu, chứng cứ theo quy định của pháp luật để ra quyết định, sẽ có bên đúng, bên sai. Hòa giải, đối thoại là việc các hòa giải viên, đối thoại viên dùng những kỹ năng chuyên biệt của mình để giúp các bên hiểu hoàn cảnh, tâm lý, tình cảm của nhau, từ đó cảm thông, nhượng bộ và đưa ra quyết định, giải pháp mà hai bên cùng thắng. Vì vậy, thủ tục hòa giải, đối thoại được tiến hành linh hoạt, đơn giản, dựa trên sự thỏa thuận của các bên và kỹ năng của hòa giải viên, đối thoại viên nên sẽ đáp ứng được các yêu cầu đặt ra.

Tuy nhiên, để bảo đảm giá trị pháp lý, hiệu lực thi hành của thỏa thuận hòa giải, đối thoại thành tại Tòa án thì cần phải được quy định theo hướng mạnh mẽ về quyền lực nhưng đơn giản về thủ tục, đáp ứng yêu cầu bảo vệ nhanh quyền, lợi ích của các bên, đảm bảo cơ chế thực thi những thỏa thuận, cam kết đó theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự, về thi hành án hành chính một cách nhanh chóng.

 Để giải quyết vấn đề này, cơ quan soạn thảo dự án Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án xây dựng theo hướng, Tòa án chỉ ra quyết định công nhận hòa giải thành, đối thoại thành khi có đủ các điều kiện theo quy định của Luật này. Thời hạn ra quyết định công nhận hòa giải thành, đối thoại thành là 7 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu; trường hợp cần thiết có thể kéo dài nhưng không quá 15 ngày.

Quyết định công nhận hòa giải thành, đối thoại thành có hiệu lực pháp luật ngay sau khi được ban hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Quyết định công nhận hòa giải thành, đối thoại thành có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, nếu có căn cứ cho rằng việc hòa giải thành, đối thoại thành đó là do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép, vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xă hội. Trình tự, thủ tục kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm được thực hiện theo quy định của pháp luật TTDS, TTHC. Quyết định công nhận hòa giải thành, đối thoại thành được thi hành theo pháp luật về thi hành án dân sự, thi hành án hành chính.

Dự án Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án khi được Quốc hội thông qua sẽ là giải pháp hữu hiệu, là một trong những ưu việt của chế định hòa giải, đối thoại. Các bên không mất nhiều thời gian, công sức để được công nhận hòa giải thành, đối thoại thành; bảo đảm hiệu lực thi hành thỏa thuận của các bên bằng quyền lực của Nhà nước; tạo niềm tin, động lực cho các bên lựa chọn hòa giải, đối thoại tại Tòa án, đáp ứng được các yêu cầu đặt ra trong việc hoàn thiện thể chế pháp luật và cải cách tư pháp theo chủ trương của Đảng và Nhà nước.

Trần Quang Huy