Cuộc cách mạng 4.0: Bài toán về nguồn nhân lực chất lượng cao

Ngô Chuyên| 10/04/2018 18:18
Theo dõi Báo điện tử Công lý trên

Theo như đánh giá của nhiều chuyên gia tại Hội thảo "Giải pháp mới nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trước thềm CPTPP", thì cuộc cách mạng 4.0 tác động không nhỏ đến nguồn nhân lực của nước ta.

Cuộc cạnh tranh khốc liệt nhất trong thời đại cách mạng 4.0 là cạnh tranh nguồn nhân lực

Cụ thể theo như đánh giá của TS Trần Mạnh Đức - Vụ Văn hóa-Giáo dục-Thanh niên-Thiếu niên-Nhi đồng – Quốc hội: “Cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0 sẽ tạo ra những thay đổi lớn về cung cầu lao động khi có sự xuất hiện của các robot. Việt Nam là nước chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ cách mạng 4.0”.

Cuộc cách mạng 4.0: Bài toán về nguồn nhân lực chất lượng cao

Ảnh minh họa. Nguồn Internet.

Đồng thời, sẽ cuộc cạnh tranh khốc liệt nhất trong thời đại cách mạng 4.0 là cạnh tranh nguồn nhân lực. Nếu Việt Nam không chuẩn bị tốt sẽ hụt hơi và không qua được cái bẫy thu nhập trung bình. Đồng thời một thực tế hiện nay thị đường lao động đang gặp phải chính là, chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam hiện tại chưa đáp ứng yêu cầu về chất lượng cũng như cân đối lao động.

"Trong bối cảnh đó, Việt Nam cần đổi mới chất lượng nguồn lao động, sự thay đổi này cũng được bổ sung tại Dự thảo Luật giáo dục Đại học", ông Đức nói.

Cùng quan điểm với TS Trần Mạnh Đức về chất lượng nguồn lao động của Việt Nam hiện nay, TS Lê Kim Dung - Cục trưởng Cục Việc làm, Bộ LĐ TB&XH cho biết, nguồn lao động Việt Nam dồi dào và ổn định. “Tuy nhiên chất lượng nguồn lao động của Việt Nam vẫn còn nhiều điểm phải bàn”, TS Kim Dung nhấn mạnh.

Bà Dung dẫn chứng, hiện nay tỷ lệ lao động trong độ tuổi đã qua đào tạo còn thấp, thiếu hụt lao động có tay nghề cao vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động và hội nhập.

Đồng thời, bà Dung cũng cho biết chúng ta nhìn vào chỉ số của ASEAN, Singapore 85% các trường đào tạo nghề và cao đẳng xin được việc làm tuy nhiên lực lượng của chúng ta rất thấp. Mặc dù có sự cải thiện rất lớn chuyển dịch từ cơ cấu nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ kể cả năm 2017 lao động nông nghiệp và phi chính thức chiếm trên 60%.

Đánh giá tác động của CPTPP tới phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam, bà Dung cho rằng, CPTPP đang tạo ra cả những cơ hội và thách thức. Phân tích về cơ hội, bà Dung cho rằng đó là cơ hội để phát triển giáo dục nghề nghiệp như tạo ra nhiều cơ hội trong việc hợp tác lẫn nhau giữa các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ hội học tập, bồi dưỡng, trao đổi nâng cao trình độ cho đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục nghề nghiệp. Ngoài ra sẽ có thêm nhiều nguồn lực đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp.

Theo bà Dung thách thức lớn nhất của lao động Việt Nam đó là tính cạnh tranh sẽ là thách thức lớn nhất trong khi mức độ sẵn sàng của giáo dục nghề nghiệp Việt Nam còn chậm. Cạnh tranh giữa Việt Nam với các nước trên thế giới trong việc cung cấp nguồn lao động chất lượng cao ngày càng tăng đòi hỏi chất lượng giáo dục nghề nghiệp phải được cải thiện đáng kể theo hướng tiếp cận được các chuẩn của khu vực và thế giới nhằm tăng cường khả năng công nhận văn bằng chứng chỉ giữa Việt Nam và các nước khác.

Bà Dung cũng đề xuất cần tăng cường đào tạo, áp dụng công nghệ trong quá trình đào tạo. Đồng thời, gắn kết đào tạo giữa các cơ sở đào tạo giáo dục nghề nghiệp với các doanh nghiệp.

Thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao

Theo phân tích của GS. TSKH Nguyễn Mại- Chủ tịch Hiệp hội nhà đầu tư nước ngoài, nói đến thách thức của nguồn nhân lực trước thềm CPTPP phải xem lại nguồn nhân lực của Việt Nam. Phải nói rằng chất lượng nguồn nhân lực trong cơ cấu từng ngành là khác nhau. Hiện nay nguồn lao động Việt Nam trong các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp vẫn còn cao vì vậy, nếu lấy GDP/ tổng dân số vô hình chung năng suất lao động của Việt Nam bị thấp đi nhiều".

Cuộc cách mạng 4.0: Bài toán về nguồn nhân lực chất lượng cao

GS.TSKH Nguyễn Mại- Chủ tịch Hiệp hội nhà đầu tư nước ngoài.

GS.TSKH Nguyễn Mại đưa ra 3 cách tiếp cận về nguồn nhân lực ở Việt Nam. Một là, Luật Giáo dục sửa đổi mặc dù chưa được thông qua, tuy nhiên một số trường đại học như Đại học Thương mại hay Đại học Kinh tế Quốc dân đã thay đổi rất nhiều trong các chương trình đào tạo cử nhân.

Cụ thể là hơn 80% số sinh viên ra trường đã có việc làm ngay. Ngoài ra, một số mô hình trường dạy nghề gắn với nhu cầu của doanh nghiệp cũng được thực hiện. Có nhiều mô hình tốt đã được triển khai chỉ tiếc là thời gian triển khai chậm.

Hai là, năm 2017 Việt Nam đã ghi nhận tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt mốc hơn 400 tỷ USD. Theo đó, xuất khẩu của Việt Nam đứng thứ 2 trong khu vực ASEAN và tại thị trường Mỹ Việt Nam từ vị trí “đáy” trong ASEAN 6, giờ cũng đã cải thiện nhiều hơn.

Ba là, năm 2017, kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Hàn Quốc đã tăng 30%, đạt hơn 80 tỷ USD. Hàn Quốc cũng là một trong những thị trường khó tính nhưng các sản phẩm của Việt Nam cũng đã đáp ứng được nhu cầu. Từ những cách tiếp cận vừa nêu, theo GS. TSKH Nguyễn Mại chất lượng nguồn lao động không đáng lo. Điều mà chất lượng nguồn lao động Việt Nam hiện nay đang thiếu đó chính là thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao như giám đốc điều hành doanh nghiệp. Vì vậy, cần phải quan tâm tới việc đào tạo nguồn nhân lực cấp cao này.

GS.TSKH Nguyễn Mại cũng kiến: “Nên khảo sát kỹ hơn về phân loại nguồn nhân lực. Khi có phân loại nguồn nhân lực chúng ta sẽ có giải pháp hữu hiệu hơn với nguồn nhân lực”.

 

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Cuộc cách mạng 4.0: Bài toán về nguồn nhân lực chất lượng cao