Nhìn trên bản đồ đất nước, dải Trường Sơn hùng vĩ, trầm mặc tựa lưng vào biên giới Lào, Campuchia, giống như chiếc xương sống của một con rồng khổng lồ, với những rẻ xương sườn là các nhánh núi chạy dài hướng ra biển.
Nhưng, cũng có cảm giác rằng, dãy núi nằm dọc theo biên giới ấy như một động mạch chủ, và những dòng sông là những huyết mạch chở khí thiêng ngàn năm hội tụ của đại ngàn chảy khắp nước Nam. Nơi đây đã viết nên bao nhiêu huyền thoại…
Sặc sỡ những sắc màu văn hóa
Các công trình nghiên cứu về nhân loại học đã khẳng định, những cư dân bản địa sinh sống trên dải Trường Sơn, có thể đã có mặt ở nơi đây từ thời kỳ đồ đá. Ước tính đến nay, nơi đây đã quy tụ khoảng trên 20 sắc dân với nhiều hệ ngôn ngữ khác nhau, tập trung trong hai hệ chính là Mã lai - Ða đảo và Môn - Khơ me. Có thể nói, dải Trường Sơn là nơi nương tựa an toàn cho các bộ tộc thiên di từ hải đảo hoặc đất liền. Chính những sắc dân này đã tạo nên những nếp sống và nền văn hóa hết sức đặc thù và đa dạng. Có thể kể ra đây biết bao điệu dân ca, dân vũ làm say đắm lòng người: Những người anh em Pa Cô sống trên địa bàn biên giới các tỉnh Quảng Trị, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế lưu giữ vốn cổ của mình trong cuộc sống thường ngày. Trai gái đi sim tìm hiểu nhau dùng đàn Talư và bài A Dà lúc tha thiết nhớ thương, lúc giận hờn, trách móc; bài Păn tưi (lẻ loi) da diết kể về nỗi buồn của chàng trai vượt núi băng sông tìm bạn yêu nhưng người ấy đã bị chàng trai khác giành mất. Trong niềm vui, nỗi buồn của bản làng có sự hoà nhịp của đủ bộ chiêng, cồng, đàn Talư, khèn bè Ciên, đàn A - ben với điệu Hiê réo rắt… Từ những bài hát nồng nàn của cô Ajư Tươi vùng A Sao - A Lưới đến điệu khèn môi da diết của nghệ nhân Mai Hoa Sen vùng Hướng Hóa đều khiến cho người nghe xao xuyến.
Lễ hội Cồng chiêng ở Tây Nguyên
Xứ trầm hương Quảng Nam lại là nơi lưu giữ những thanh âm tuyệt vời của dân tộc Jẻ-T’riêng và Cơ-tu ở 73 thôn bản thuộc 12 xã của hai huyện Nam Giang và Tây Giang. Văn hóa tộc người Cơ Tu không chỉ đa dạng và phong phú mà còn tiềm ẩn trong đó biết bao triết lý nhân sinh quan của con người đã quen sống khoáng đạt giữa núi rừng. Ngoài các lễ hội truyền thống như: Lễ hội đâm trâu, mừng lúa mới, mừng nhà mới hay cưới hỏi, ngày hội dân ca dân vũ tân’tung, da’dă, chơi đàn abel, khèn… Độc đáo nhất có lẽ là điệu P’rá pr’ma, têng bh’noóch, tr’a (nói lý - hát lý truyền thống)...
Già làng Cơlâu Nâm ở thôn Pơr-ning, huyện Tây Giang tâm sự: “Nói lý - hát lý là cả một quá trình rèn luyện, trải nghiệm, học tập, tích lũy những cái hay cái đẹp trong cuộc sống hàng ngày, từ mối quan hệ giữa con người với nhau, đến thiên nhiên, địa lợi sinh cảnh quanh vùng. Từ đó giải quyết những tình huống khó nhằm đạt được hiệu quả cao giữa các cá thể”. Già cũng phân tích thêm rằng, điệu hát này là hình thức ứng khẩu sử dụng vào mục đích sinh hoạt văn hóa văn nghệ trong đời sống người Cơ Tu. Nói lý - hát lý không nhất thiết là phải dùng triết lý để phân tích một sự việc, hiện tượng, mà dùng hình tượng ẩn dụ, nhân hóa ví cái này hiểu nghĩa cái kia. Vì thế, nói lý - hát lý luôn kích thích người nghe, giúp đối phương hiểu sâu công việc và đồng cảm với nhau.
Nếu người Cơ Tu tự hào về điệu P’rá pr’ma, têng bh’noóch, tr’a thì người anh em Jẻ T’riêng sống dọc theo con đường Hồ Chí Minh huyền thoại lại sở hữu một kho tàng thơ ca mang đậm chất trữ tình và giàu nhạc cảm. Một số vũ khúc cổ truyền thường được diễn trong các lễ hội của buôn làng. Các nhạc cụ truyền thống như bộ cồng chiêng gồm 7 chiếc, 6 chiếc, 4 chiếc, 3 chiếc, kèn ống bầu (Kơmbuat), đàn ống tre (Kơrla), trống (Sơgơr)... có khả năng hòa âm với lời ca hoặc độc tấu cũng là nét đẹp văn hóa riêng có của đồng bào nơi đây.
Nghệ nhân A Ja
Mê đắm cồng chiêng
Dãy núi Trường Sơn kiêu hãnh ấy sau biết bao ghềnh cao, vách dựng lại mở lòng hiền hòa, ấm nóng với màu đất đỏ bazan tạo nên cao nguyên huyền thoại. Theo dòng sông Auna hiền hòa, thơ mộng chảy giữa cao nguyên, sẽ tuyệt vời biết bao nếu được nghe nghệ nhân A Lưu, A Bek (dân tộc Ba Na), Y Yon (dân tộc Jarai) rỉ rả những bản trường ca của đất trời Tây Nguyên từ đầu đêm cho đến sớm mai. Để nhận ra tâm hồn người Tây Nguyên đâu hẳn lúc nào cũng gầm gào, đầy sức mạnh thể hiện nội tâm như trong các ca khúc của nhạc sĩ Nguyễn Cường mà trầm lắng êm ả hòa theo bài Kdor đối đáp dưới dạng đồng ca, xướng xô, kể câu chuyện về các dân tộc đến với đất nước này từ ngàn năm trước. Nghệ nhân A Lưu, A Ja hát kể mà giọng Hơ-mon của các ông làm hiển hiện trước mắt người nghe như tiếng nước reo, lửa cháy, tiếng sấm rền trong những cơn giông đầu hạ, tiếng hổ gầm trong vách núi, và còn có cả tiếng chim hót, tiếng cười đùa của những cô gái Ba Na bên dòng suối. Đặc biệt những trường ca Giông, Giở qua lời hát kể của ông đã hoàn thành sứ mạng của mình là nối liền quá khứ nghìn năm và hiện tại một cách đầy sinh động.
Một trong những nét độc đáo và đa dạng của nền âm nhạc dân gian trên dãy Trường Sơn là những loại nhạc cụ truyền thống của các sắc dân nơi đây. Thật khó để có thể thống kê hết được các loại nhạc cụ cùng những tính năng chuyên biệt của chúng. Điểm tương đồng dễ nhận thấy là đa phần các nhạc cụ đều được chế tác từ tre nứa và thân cây rừng nhưng không vì thế mà làm giảm đi nhạc cảm của những người được thưởng thức. Các nghệ nhân đã ghép những ống nứa dài ngắn khác nhau để tạo nên dàn nhạc đinh tút (thổi vào đầu miệng ống), klôngpút (vỗ bằng tay lùa hơi vào ống), đinh jơi, Ciên (bè ống nứa tròn), goong (đàn dây), hay T’rưng (nhạc gõ)… Mỗi dân tộc một màu sắc, một âm điệu đã khiến cho bài ca của núi rừng thể hiện mọi trạng huống cảm xúc của con người trước thiên nhiên và cuộc sống.
Nghệ nhân A Lưu
Song, điều kỳ diệu nhất mà các sắc dân của dãy Trường Sơn mang lại cho kho tàng văn hóa và âm nhạc nước nhà có lẽ chính là sự hùng tráng bất tận của dàn cồng chiêng. Hầu hết các dân tộc, dù là có số dân đông đảo như Jarai, Êđê, Banar hay đến các dân tộc ít dân số nhất như Brâu, Rơ măm tỉnh Kon Tum đều có tài sản quý giá là những dàn cồng chiêng của riêng mình. Nếu được chứng kiến Liên hoan văn hóa cồng chiêng các dân tộc Trường Sơn - Tây Nguyên, người ta mới thấy ngỡ ngàng trước vẻ đẹp đầy hoang sơ và quyến rũ. Hàng trăm tiết mục diễn tấu cồng chiêng đa dạng được diễn tấu bởi hàng trăm nghệ nhân đến từ 13 dân tộc Vân Kiều, Kơ tu, H"rê, K"dong, Chăm roi, Răk Lây, Giẻ Triêng, H"mông, Ba Na, K"ho, Gia Rai, Xê Đăng và Ê Đê thuộc 12 tỉnh trong khu vực từ Quảng Trị đến Ninh Thuận. Dường như không có sinh hoạt văn hóa nào của họ mà lại thiếu đi tiếng cồng chiêng. Nó ngân nga trong lễ mời ông bà đi gieo hạt, lễ ăn cơm mới, lễ bỏ mả hay những ngày hội mừng bản làng, mừng đất nước đổi mới.
Đi trên quốc lộ 14, ngang qua biết bao tượng đài, đền miếu tưởng niệm, được nghe nhiều câu chuyện về đồng bào các dân tộc nơi đây đã kề vai sát cánh chiến đấu giải phòng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, sẽ càng thấy được quyết tâm của các dân tộc đã kiên gan gìn giữ nét văn hóa của cộng đồng mình dù trải qua chiến tranh, li loạn hay những thiếu khó, cam khổ nơi xa xôi, khắc nghiệt. Người Jarai, Êđê, Banar… đánh cồng chiêng theo bài bản và quy định chặt trong cách đánh theo từng hoàn cảnh. Dàn cồng chiêng có thể lên đến hàng chục chiếc được tấu lên theo từng bè ổn định. Dân tộc Brâu với chỉ vài trăm người lại có niềm tự hào về bộ chiêng Tha trân quý. Mỗi lần đánh chiêng chỉ có hai người ngồi hai bên, nhưng cũng không vì thế mà kém đi giai điệu. Có chứng kiến một đêm nhảy múa quanh đống lửa bên nhà rông - nơi trước đây từng là hố bom cày, nghe dàn cồng chiêng dân tộc Rơ Măm ở biên giới Kon Tum mới thấy hết được tiếng cồng chiêng có vai trò quan trọng như thế nào trong đời sống tinh thần của đồng bào. Nó vừa là hơi thở, vừa là máu huyết của các dân tộc trên dãy Trường Sơn.