Giải trình tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Luật Tổ chức TAND (sửa đổi)

Hoài Nam - Tống Toàn| 05/11/2014 07:31
Theo dõi Báo điện tử Công lý trên

Vừa qua, ông Nguyễn Văn Hiện, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội đã trình bày Báo cáo giải trình tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Luật Tổ chức TAND (sửa đổi) của UBTVQH tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII.

Báo Công lý trân trọng trích giới thiệu cùng bạn đọc những nội dung cơ bản của Báo cáo này.

TAND gồm 4 cấp

Theo đó, Báo cáo nêu rõ, đa số ý kiến cơ bản tán thành với quy định tại khoản 2 Điều 2 của Dự thảo Luật trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 7 về nội dung “Tòa án thực hiện quyền tư pháp”.

Về tổ chức TAND sơ thẩm trong hệ thống TAND (Điều 3), UBTVQH nhận thấy, từ nhiều năm nay, các cơ quan có trách nhiệm ở nước ta đã triển khai thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị, trong đó đã nghiên cứu đề xuất mô hình tổ chức các Tòa án. TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là TAND cấp huyện) đã được tăng cường hơn về cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ, tăng thẩm quyền giải quyết hầu hết các loại vụ việc, cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.

Như vậy, hệ thống tổ chức TAND gồm có TANDTC, TAND cấp cao, TAND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương và các Tòa án quân sự như thể hiện tại Điều 3 của dự thảo Luật.

Giải trình tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Luật Tổ chức TAND (sửa đổi)

Ông Nguyễn Văn Hiện trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu Luật Tổ chức TAND (sửa đổi) trước Quốc hội

Về cơ chế quản lý Tòa án về tổ chức (Điều 18) Dự thảo Luật, UBTVQH tán thành với ý kiến của đa số ĐBQH tiếp tục giao TANDTC quản lý các TAND, phối hợp với Bộ Quốc phòng quản lý các Tòa án quân sự về tổ chức.

UBTVQH nhấn mạnh, việc thành lập Hội đồng tư pháp Quốc gia để quản lý Tòa án về tổ chức là vấn đề mới, chưa được nghiên cứu kỹ, chúng ta chưa có thực tiễn về tổ chức và vận hành cơ chế này. Vì vậy, UBTVQH đề nghị tiếp tục giao TANDTC quản lý các Tòa án về tổ chức, nhưng có bổ sung trong dự thảo luật, quy định cụ thể để tách bạch hoạt động quản lý về tổ chức với hoạt động xét xử nhằm bảo đảm việc quản lý không ảnh hưởng đến tính độc lập xét xử của Tòa án các cấp.

Nhiệm vụ phát triển án lệ của TANDTC (điểm c khoản 2 Điều 22) cũng được UBTVQH cho rằng: Chủ trương nghiên cứu phát triển án lệ đã được nêu trong Nghị quyết số 48-NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị. Ở nước ta, án lệ không phải là nguồn luật. Ngoài các quyết định giám đốc thẩm có tính chuẩn mực của Hội đồng Thẩm phán TANDTC thì Hội đồng Thẩm phán TANDTC còn có thể lựa chọn các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của các Tòa án khác để tổng kết phát triển thành án lệ cho các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử, bảo đảm việc áp dụng thống nhất pháp luật.

Về hiệu lực Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán TANDTC (khoản 4 Điều 22), UBTVQH khẳng định: Khoản 1 Điều 104 của Hiến pháp năm 2013 quy định “TANDTC là cơ quan xét xử cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam”. Do đó, quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng thẩm phán TANDTC là quyết định cao nhất. Trong trường hợp có căn cứ xác định quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán TANDTC có vi phạm pháp luật hoặc phát hiện tình tiết quan trọng mới thì quyết định này vẫn có thể được xem xét lại theo thủ tục đặc biệt quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự và Luật Tố tụng hành chính. Tuy nhiên, quyết định cuối cùng trong trường hợp xem xét lại theo thủ tục đặc biệt vẫn là quyết định của Hội đồng thẩm phán TANDTC.

TAND cấp huyện có thể có Tòa chuyên trách

Đề cập đến việc thành lập Tòa giản lược trong cơ cấu tổ chức TAND, UBTVQH cho rằng, về nguyên tắc, TAND cấp huyện không phân chia thành các Tòa chuyên trách. Tuy nhiên, xuất phát từ nhu cầu phát triển của đất nước, xu hướng chuyên môn hóa trong tổ chức và hoạt động của Tòa án, đề nghị Quốc hội xem xét cho phép quy định theo hướng mở, đó là: TAND cấp huyện có thể có các Tòa chuyên trách. Thẩm quyền của Tòa án Quân sự (Điều 48), UBTVQH đề nghị trong Luật này chỉ nên quy định chung như phương án 1 nêu trên của dự thảo Luật. Còn thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự đối với các loại vụ án, đối tượng phạm tội cụ thể sẽ được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự dự kiến được Quốc hội xem xét, sửa đổi, bổ sung trong thời gian tới.

UBTVQH tán thành với ý kiến của đa số ĐBQH, quy định trong Dự thảo Luật có bốn ngạch Thẩm phán (Điều 63 - gồm có Thẩm phán TANDTC, Thẩm phán cao cấp, Thẩm phán trung cấp và Thẩm phán sơ cấp) là phù hợp. Đồng thời, bảo đảm phân hóa đội ngũ Thẩm phán một cách rõ ràng về tiêu chuẩn, trình độ chuyên môn, năng lực nghiệp vụ và kinh nghiệm công tác. Thẩm phán giữ ngạch càng cao thì tiêu chuẩn càng phải cao.

UBTVQH cũng tán thành với ý kiến của nhiều ĐBQH về việc quy định cơ chế tuyển chọn và thi tuyển nguồn Thẩm phán (các Điều 64, 65, 66 và 67). Nội dung này được quy định tại Điều 67 của dự thảo Luật, theo đó Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia có nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức kỳ thi tuyển chọn nguồn Thẩm phán; xem xét tuyển chọn người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện để đề nghị bổ nhiệm làm Thẩm phán.

Tiếp thu ý kiến ĐBQH, ngoài các tiêu chuẩn Thẩm phán quy định trong dự thảo Luật đã trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 7, Điều 64 của dự thảo Luật đã được chỉnh lý bổ sung thêm khoản 6 quy định tiêu chuẩn Thẩm phán “Đã trúng tuyển kỳ thi tuyển chọn nguồn Thẩm phán”.

Đối với điều kiện bổ nhiệm Thẩm phán, dự thảo Luật đã được chỉnh lý bổ sung thêm điều kiện về năng lực của Thẩm phán xét xử các vụ án và giải quyết các vụ việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án theo quy định của pháp luật. Bảo đảm yêu cầu Thẩm phán được bổ nhiệm vào ngạch cao hơn phải có trình độ, năng lực cao hơn. Tuy nhiên, trong trường hợp đặc biệt do nhu cầu cán bộ của TAND thì một số đối tượng khác tuy chưa là Thẩm phán Tòa án quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 65 nhưng có thời gian công tác pháp luật, có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án theo quy định của pháp luật thì có thể được đề nghị tuyển chọn bổ nhiệm Thẩm phán trung cấp, cao cấp. Để bảo đảm chất lượng Thẩm phán khi được bổ nhiệm từ những đối tượng này, các khoản 2 và 3 Điều 65 dự thảo Luật đã chỉnh lý theo hướng tăng thời gian công tác pháp luật so với quy định của dự thảo Luật trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 7.

Thẩm phán TANDTC phải là những chuyên gia đầu ngành về pháp luật

Đối với Thẩm phán TANDTC, dự thảo luật cần quy định điều kiện để bổ nhiệm nhằm cụ thể hóa tiêu chí “là những chuyên gia đầu ngành về pháp luật, có kinh nghiệm xét xử và có uy tín cao trong xã hội” theo Kết luận số 79-KL/TW của Bộ Chính trị. Quy định tiêu chuẩn bổ nhiệm Thẩm phán TANDTC tại khoản 4 Điều 53 Dự thảo Luật trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 7 “Người làm Thẩm phán cao cấp từ đủ 5 năm trở lên và đang giữ chức vụ Chánh án, Phó Chánh án TAND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trở lên…” là chưa phù hợp, chưa bao quát hết nguồn Thẩm phán TANDTC. Vì thực tiễn cho thấy, nhiều Thẩm phán không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý (Chánh án, Phó Chánh án Tòa án cấp tỉnh) nhưng có uy tín, có năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, có nhiều kinh nghiệm thực tiễn xét xử có đủ điều kiện để đảm nhiệm chức vụ Thẩm phán ở ngạch cao hơn.

Tiếp thu ý kiến của nhiều ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo chỉnh lý lại khoản 4 Điều 63 như thể hiện tại Dự thảo Luật.

UBTVQH nhận thấy, thủ tục giới thiệu, phê chuẩn, bổ nhiệm Thẩm phán TANDTC đã được quy định tại Nghị quyết số 719/2014/UBTVQH13 ngày 6/1/2014 của UBTVQH hướng dẫn thực hiện khoản 2 Điều 2 của Nghị quyết số 64/2013/NQ-QH13 của Quốc hội quy định một số điểm thi hành Hiến pháp “Chánh án TANDTC trình Quốc hội phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán TANDTC theo đề nghị của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán TANDTC”. Tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH đề nghị luật hóa quy định nêu trên để bổ sung quy định Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia có thẩm quyền tuyển chọn, giới thiệu người đủ điều kiện, tiêu chuẩn do Chánh án TANDTC đề nghị để Chánh án TANDTC trình Quốc hội phê chuẩn việc đề nghị bổ nhiệm, Chủ tịch nước bổ nhiệm Thẩm phán TANDTC. Đồng thời, bảo đảm nguyên tắc bình đẳng trong việc tuyển chọn và giới thiệu giữa các Thẩm phán Tòa án các cấp.

Giữ quy định nhiệm kỳ của Thẩm phán

UBTVQH cũng cho rằng, tiếp tục giữ quy định về nhiệm kỳ của Thẩm phán là cần thiết, nhằm bảo đảm thận trọng, khách quan trong đánh giá, bổ nhiệm cán bộ, tạo động lực phấn đấu, rèn luyện, nâng cao trình độ, phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm của Thẩm phán trong thực thi công vụ. Tiếp thu ý kiến của đa số ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo chỉnh lý quy định nhiệm kỳ đầu của Thẩm phán là 5 năm, nếu được tái bổ nhiệm thì nhiệm kỳ tiếp theo là 10 năm (không phân biệt đối với Thẩm phán TANDTC và Thẩm phán các Tòa án khác).

Về tuổi nghỉ hưu của Thẩm phán (Điều 69), tiếp thu ý kiến của đa số các ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo chỉnh lý theo hướng không quy định tuổi nghỉ hưu của Thẩm phán trong Dự thảo Luật này. Trường hợp kéo dài tuổi nghỉ hưu của Thẩm phán (nếu có) sẽ được quy định trong văn bản pháp luật khác.

UBTVQH cũng cho rằng, cơ chế TAND quản lý Hội thẩm nhân dân như hiện nay mang tính hình thức, không phù hợp với vị trí, vai trò của Hội thẩm nhân dân theo quy định của Hiến pháp năm 2013. Bên cạnh đó, cơ chế phối hợp trong quản lý Hội thẩm nhân dân giữa TAND, HĐND và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp chưa bảo đảm cho Đoàn Hội thẩm và Hội thẩm nhân dân phát huy vai trò, tác dụng của mình. Để khắc phục bất cập hiện hành cũng như tình trạng “công chức hóa Hội thẩm nhân dân”, phát huy vai trò tự quản, tích cực của Đoàn Hội thẩm, UBTVQH đề nghị không nên quy định TAND, Hội đồng nhân dân hoặc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp quản lý Hội thẩm nhân dân mà nên quy định Hội thẩm được tổ chức thành Đoàn Hội thẩm. Đoàn Hội thẩm quản lý Hội thẩm, được tổ chức và hoạt động theo quy chế do UBTVQH quy định. Tòa án có trách nhiệm bồi dưỡng nghiệp vụ, phân công Hội thẩm tham gia xét xử phù hợp với năng lực của họ. Hội đồng nhân dân và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện giám sát hoạt động của Hội thẩm. Vì vậy, nội dung này được chỉnh lý và thể hiện tại Điều 86 của dự thảo Luật.

Ngoài các nội dung trên, UBTVQH còn tiếp thu nhiều ý kiến khác của các ĐBQH, chỉ đạo rà soát lại toàn bộ các điều khoản của Dự thảo Luật; chỉnh lý, bổ sung thêm nhiều điều luật, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của TAND, quy định phân biệt trách nhiệm của Chánh án TAND về luân chuyển và điều động Thẩm phán; quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán, trách nhiệm của Hội thẩm... Đồng thời, hoàn thiện về kỹ thuật văn bản, sắp xếp lại các điều, khoản trong Dự thảo Luật cho hợp lý hơn. Vì thế, Dự thảo Luật Tổ chức TAND trình Quốc hội khóa XIII, kỳ 8 có 11 chương, 93 điều.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Giải trình tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Luật Tổ chức TAND (sửa đổi)