Nhìn lại 4 năm thực hiện Nghị quyết TW 4 về xây dựng Đảng

30/11/2015 11:47
Theo dõi Báo điện tử Công lý trên

Bốn năm qua, việc thực hiện, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) "một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay" đã tạo được một số chuyển biến quan trọng bước đầu về công tác xây dựng Đảng.

Nhìn lại 4 năm thực hiện Nghị quyết TW 4 về xây dựng Đảng

Toàn cảnh hội nghị ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 4 khóa XI. (Ảnh: Trí Dũng/TTXVN)

Báo Công lý trân trọng giới thiệu bài viết "Nhìn lại 4 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI)" một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay" của ​ông Nguyễn Đức Hà, Vụ trưởng Ban Tổ chức Trung ương, Thành viên Tổ giúp việc Bộ Chính trị, Ban Bí thư thực hiện Nghị quyết Trung ương 4.

Nhằm cụ thể hóa thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng về công tác xây dựng Đảng, trong những ngày cuối tháng 12/2011, Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) đã thảo luận và thống nhất rất cao việc ban hành Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” (Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 16/1/2012). Nhìn lại gần 4 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, có thể nêu lên một số vấn đề lớn đáng chú ý như sau:

1. Về chỉ đạo thực hiện Nghị quyết:

Xác định tầm quan trọng đặc biệt của Nghị quyết Trung ương 4, ngay sau khi Nghị quyết ban hành, Bộ Chính trị đã ban hành chỉ thị, dự thảo Kế hoạch thực hiện và tổ chức Hội nghị cán bộ chủ chốt toàn quốc (với quy mô lớn nhất từ trước đến nay) để học tập, nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết do đồng chí Tổng Bí thư trực tiếp truyền đạt; mở hai Hội nghị với cán bộ cao cấp đã nghỉ hưu nguyên là ủy viên Trung ương Đảng, bộ trưởng và tương đương để quán triệt Nghị quyết và thống nhất nội dung, cách tiến hành; mở các lớp nghiên cứu Nghị quyết cho cán bộ chủ chốt ở các cơ quan Trung ương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị-xã hội và chỉ đạo chặt chẽ, nghiêm túc việc học tập, quán triệt Nghị quyết ở các cấp, tạo sự thống nhất về nhận thức, ý chí, quyết tâm trong toàn Đảng về thực hiện Nghị quyết.

Việc triển khai và tổ chức thực hiện Nghị quyết được Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy đảng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, cụ thể với quyết tâm chính trị cao; ba nhiệm vụ cấp bách và bốn nhóm giải pháp nêu trong Nghị quyết đã được thể chế hoá, cụ thể hoá bằng các chỉ thị, kế hoạch, quyết định, quy định, quy chế, hướng dẫn của Trung ương tương đối kịp thời, đồng bộ và cụ thể, tạo cơ sở và điều kiện thuận lợi cho việc triển khai, tổ chức thực hiện ở các cấp.

Công tác chỉ đạo thực hiện Nghị quyết, nhất là việc chuẩn bị và tổ chức kiểm điểm, tự phê bình và phê bình trong Đảng có một số nội dung, cách làm mới, đem lại kết quả cụ thể, thiết thực như: Quá trình chuẩn bị kiểm điểm, cấp ủy các cấp lấy ý kiến góp ý kiểm điểm của các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc và cán bộ chủ chốt của ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị đã nghỉ hưu bằng các hình thức phù hợp; cấp trên rà soát và gợi ý kiểm điểm đối với những tập thể, cá nhân có vấn đề nổi cộm, cần kiểm điểm sâu và phải có báo cáo giải trình; nơi nào chuẩn bị chưa đạt yêu cầu thì chưa được tiến hành kiểm điểm.

Bộ Chính trị xác định 12 biểu hiện chủ yếu để xác định việc chuẩn bị và tổ chức kiểm điểm không đạt yêu cầu, làm cơ sở để cấp trên đánh giá kết quả kiểm điểm cấp dưới ở các cấp.

Nội dung kiểm điểm chỉ tập trung vào 3 vấn đề cấp bách nêu trong Nghị quyết, gắn với xem xét việc thực hiện các quy chế, quy định của Đảng; việc giải quyết những vấn đề bức xúc của ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị; liên hệ làm rõ những hạn chế, khuyết điểm, yếu kém đã chỉ ra nhiều năm nhưng chậm được khắc phục.

Trình tự kiểm điểm được tiến hành từ trên xuống dưới, cấp trên kiểm điểm trước, cấp dưới kiểm điểm sau; tập thể kiểm điểm trước, cá nhân kiểm điểm sau; cấp trên dự và chỉ đạo việc kiểm điểm ở cấp dưới, nhất là đối với những tập thể, cá nhân được gợi ý kiểm điểm; trong quá trình kiểm điểm, vấn đề nào đã rõ thì kết luận ngay, vấn đề nào chưa rõ thì giao cho cơ quan chức năng thẩm tra, xem xét, làm rõ trước khi kết luận.

Sau kiểm điểm, cấp ủy có kết luận bằng văn bản về những ưu, khuyết điểm chính của tập thể, cá nhân và mỗi tập thể, cá nhân đều phải xây dựng kế hoạch sửa chữa khắc phục khuyết điểm; kết quả kiểm điểm phải báo cáo trước hội nghị cấp ủy hoặc hội nghị cán bộ chủ chốt cùng cấp thảo luận, tham gia ý kiến và phải được cấp ủy cấp trên trực tiếp đánh giá; tập thể, cá nhân nào kiểm điểm chưa đạt yêu cầu thì phải kiểm điểm bổ sung hoặc kiểm điểm lại; cấp ủy thông báo kết quả tiếp thu ý kiến đối với những tập thể, cá nhân đã đóng góp ý kiến trước kiểm điểm bằng các hình thức phù hợp.

Trong quá trình chỉ đạo thực hiện Nghị quyết, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy đảng thường xuyên theo dõi, kiểm tra, giám sát và đôn đốc việc thực hiện, nhất là trong quá trình chuẩn bị, tổ chức kiểm điểm và việc xây dựng, thực hiện kế hoạch sửa chữa, khắc phục khuyết điểm đã được kết luận qua tự phê bình và phê bình; định kỳ đánh giá kết quả rút kinh nghiệm và kịp thời bổ sung, điều chỉnh, hoàn thiện các quy chế, quy định cho phù hợp với thực tiễn.

2. Một số kết quả chủ yếu đạt được:

Với quan điểm khách quan, toàn diện và thái độ nghiêm túc, chúng ta có thể khẳng định rằng: Những kết quả qua 4 năm thực hiện Nghị quyết tuy chưa được như mong muốn, nhưng đã tạo được một số chuyển biến quan trọng bước đầu về công tác xây dựng Đảng, thể hiện trên các nội dung chủ yếu sau đây:

Một là, góp phần củng cố, nâng cao và thống nhất nhận thức tư tưởng trong Đảng về tình hình Đảng và công tác xây dựng Đảng hiện nay. Thông qua việc tổ chức học tập, quán triệt Nghị quyết và các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Trung ương một cách nghiêm túc ở các cấp, đã trở thành đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng; giúp cho các cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên nâng cao nhận thức về vị trí then chốt của công tác xây dựng Đảng; thấy rõ và sâu sắc ý nghĩa quan trọng, sự cần thiết phải thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 và nhận diện rõ hơn những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên.

Từ đó, mỗi cán bộ, đảng viên xác định trách nhiệm của mình, nêu cao ý thức tự giác, gương mẫu trong việc thực hiện Nghị quyết.

Hai là, đã góp phần đấu tranh, ngăn chăn, đẩy lùi được một số biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. Qua việc chuẩn bị và tổ chức kiểm điểm, tự phê bình, phê bình tập thể, cá nhân và lắng nghe, tiếp thu ý kiến góp ý trước kiểm điểm, là dịp để mỗi cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên tự nhìn nhận, soi xét lại bản thân mình, thấy rõ ưu điểm để phát huy và hạn chế, khuyết điểm để sửa chữa, khắc phục; đồng thời, chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm, từ đó tự điều chỉnh nhận thức, hành vi của bản thân, của vợ (chồng), con và người thân.

Qua kiểm điểm, tự phê bình và phê bình, kết hợ p với công tác kiểm tra, giám sát của Đảng; với công tác thanh tra, kiểm toán của Nhà nước và công tác điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan bảo vệ pháp luật, chỉ tính trong 3 năm (2012, 2013, 2014), toàn Đảng đã xử lý kỷ luật hơn 54.000 đảng viên ở các cấp và xóa tên, cho ra khỏi Đảng hàng nghìn trường hợp khác, đã có tác dụng cảnh báo, cảnh tỉnh, răn đe và phòng ngừa sai phạm; siết lại kỷ cương, kỷ luật, tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng; đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi được một số biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, góp phần làm trong sạch nội bộ Đảng.

Ba là, đã kịp thời sửa chữa, khắc phục được một số hạn chế, khuyết điểm, yếu kém kéo dài trên một số lĩnh vực của công tác xây dựng Đảng. Sau kiểm điểm, tự phê bình và phê bình, từ Bộ Chính trị, Ban Bí thư đến các cấp ủy, tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên đều xây dựng và thực hiện kế hoạch sửa chữa, khắc phục những khuyết điểm đã được kết luận qua tự phê b ình và phê bình.

Do vậy, một số hạn chế, khuyết điểm, yếu kém về công tác tổ chức cán bộ đã từng bước được khắc phục. Nhiều vụ, việc nổi cộm, bức xúc trong xã hội về quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản; trong quản lý xây dựng, trật tự đô thị và một số vụ tranh chấp, khiếu kiện kéo dài đã được giải quyết.

Nhiều cấp ủy đã quy định cụ thể về việc nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu; quy định cán bộ lãnh đạo , quản lý cấp trên phải tham dự sinh hoạt với chi bộ ở địa bàn dân cư định kỳ tiếp xúc, đối thoại với nhân dân tại cơ sở; v.v.

Bốn là, đã tạo được một số chuyển biến mới tích cực về công tác cán bộ, nhất là ở cấp Trung ương. Các cấp ủy, tổ chức đảng đã rà soát, đánh giá và sắp xếp, bố trí lại đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp , nhất là đối với những cán bộ , đảng viên có khuyết điểm qua tự phê bình và phê bình hoặc tín nhiệm thấp.

Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp được tăng cường và đẩy mạnh hơn. Lần đầu tiên, Ban Chấp hành Trung ương đã xây dựng quy hoạch đội ngũ cán bộ cấp chiến lược.

Bộ Chính trị đã quyết định tổ chức 02 lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới cho hơn 150 đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI; 06 lớp bồi dưỡng cán bộ dự nguồn cao cấp cho hơn 500 đồng chí; 03 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ theo chức danh cho hơn 170 đồng chí bí thư cấp ủy cấp huyện; điều động, luân chuyển và sắp xếp, bố trí lại nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý đương chức và trong quy hoạch ở Trung ương v à các địa phương, phục vụ cho công tác chuẩn bị nhân sự đại hội đảng bộ cấp tỉnh nhiệm kỳ 2015-2020 và Đại hội lần thứ XII của Đảng.

Năm là, nguyên tắc tập trung dân chủ tiếp tục được cụ thể hóa nhằm xác định rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị và tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.

Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành một số văn bản quan trọng về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nư ớc và xã hội.

Các cấp ủy, tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở đã tiến hành rà soát, bổ sung, hoàn thiện các quy chế, quy định đã có cho phù hợp; đồng thời ban hành một số quy chế, quy định mới nhằm phát huy dân chủ, tăng cường kỷ cương, kỷ luật của Đảng và đề cao trách nhiệm, thẩm quyền của người đứng đầu; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa cấp ủy, ban thường vụ và thường trực cấp ủy; thực hiện quy định về việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các thành viên lãnh đạo cấp ủy và cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội; đã thực hiện việc chất vấn trong các kỳ họp của Ban Chấp hành Trung ương và cấp ủy các cấp.

Triển khai thực hiện Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị-xã hội; Quy định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị-xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.

Nhiều cấp ủy đã coi trọng cải tiến phong cách, lề lối làm việc, đổi mới việc ban hành và tổ chức thực hiện nghị quyết ; coi trọng việc sơ kết, tổng kết thực hiện các nghị quyết của cấp trên và của cấp mình ; tích cực cải cách thủ tục hành chính và ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác lãnh đạo , chỉ đạo của cấp ủy.

Sáu là, quá trình thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 được kết hợp chặt chẽ với việc đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã đem lại một số kết quả cụ thể, thiết thực.

Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí được tăng cường và đẩy mạnh hơn. Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định thành lập lại Ban Nội chính Trung ương; kiện toàn Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng do đồng chí Tổng Bí thư làm Trưởng ban và tập trung chỉ đạo quyết liệt vấn đề này.

Do vậy, nhiều văn bản chỉ đạo về đấu tranh phòng, chống tham nhũng đã được thể chế hóa bằng pháp luật; nhiều vụ việc tham nhũng lớn, nghiêm trọng và phức tạp kéo dài ở Trung ương và các địa phương đã sớm được điều tra, khởi tố, truy tố và xét xử công khai với những bản án nghiêm khắc dành cho các bị cáo, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ, tin tưởng vào quyết tâm đấu tranh, đẩy lùi tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta.

Như vậy, trong bối cảnh đất nước có nhiều khó khăn, thách thức; tình hình thế giới, khu vực có những diễn biến nhanh và phức tạp, những chuyển biến tích cực về công tác xây dựng Đảng qua thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 đã góp phần giữ vững ổn định chính trị-xã hội; củng cố quốc phòng, an ninh; bảo đảm an sinh xã hội và thúc đẩy thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội của đất nước; góp phần quan trọng vào sự thành công của đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2015-2020, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.

Mặt khác, cũng qua chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, các cấp ủy, tổ chức đảng đã tích lũy thêm kinh nghiệm về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới hiện nay.

Có được những kết quả nêu trên là do: Nghị quyết Trung ương 4 là một chủ trương đúng đắn, kịp thời, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân; được dư luận xã hội đồng tình ủng hộ, tích cực tham gia.

Trong quá trình thực hiện Nghị quyết, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, bài bản, khoa học, cụ thể với quyết tâm chính trị cao và có một số đổi mới về nội dung, cách làm so với trước, đem lại hiệu quả cụ thể, thiết thực. Có sự tham gia tích cực của các tổ chức trong hệ thống chính trị ở các cấp; sự gương mẫu, nghiêm túc, tự giác trong kiểm điểm, tự phê bình, phê bình và sửa chữa khuyết điểm của tập thể, các nhân các đồng chí Bộ Chính trị, Ban Bí thư là tấm gương để cấp dưới và cán bộ, đảng viên học tập, noi theo.

3. Một số hạn chế, khuyết điểm cần khắc phục:

Bên cạnh kết quả đạt được, việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 còn bộc lộ một số mặt hạn chế, khuyết điểm cần rút kinh nghiệm sau đây:

Một là, một số cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc về vị trí then chốt của công tác xây dựng Đảng; chưa thấy rõ ý nghĩa của việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 trong tình hình mới. Vì vậy, trong quá trình chuẩn bị và tiến hành kiểm điểm, tự phê bình và phê bình tập thể, cá nhân còn nêu nhiều ưu điểm, né tránh khuyết điểm và chưa nhận thức đúng mức trách nhiệm của mình đối với các nhiệm vụ được phân công và tr ong những hạn chế, khuyết điểm chung của tập thể.

Hai là, qua kiểm điểm, tự phê bình và phê bình, một số vấn đề nổi cộm, bức xúc mà dư luận quan tâm như tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tội, cục bộ, “lợi ích nhóm” vẫn chưa làm rõ được thực chất và mức độ nghiêm trọng của tình hình ; chưa chỉ ra được địa chỉ, đối tượng và trách nhiệm cụ thể.

Tình trạng suy thoái về tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên tuy đã được đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi một bước nhưng vẫn đang tồn tại, thậm chí có mặt còn phát triển tinh vi, phức tạp hơn trước.

Ba là, sau kiểm điểm tự phê bình và phê bình, một số nơi chậm đề ra kế hoạch sửa chữa, khắc phục khuyết điểm hoặc xây dựng kế hoạch còn chung chung, thiếu những giải pháp cụ thể, mạnh mẽ, đồng bộ, khả thi.

Khi đưa việc kiểm điểm theo Nghị quyết Trung ương 4 trở thành thường xuyên, gắn với kiểm điểm công tác cuối năm, nhiều cấp ủy chỉ đạo chưa chặt chẽ; tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm và bệnh thành tích còn xảy ra khá phổ biến ở các cấp.

Bốn là, trong quá trình thực hiện Nghị quyết, việc ban hành một số quy định, quy chế, hướng dẫn trên một số lĩnh vực còn chậm và chưa đồng bộ; một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa coi trọng công tác kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc thực hiện. Một số vụ việc nổi cộm, phức tạp để kéo dài, chưa được xử lý kịp thời, dứt điểm và nghiêm khắc , gây bức xúc trong Đảng và trong xã hội.

Năm là, việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ở một số nơi còn hình thức, mang tính phong trào, chưa trở thành công việc cụ thể, thiết thực hàng ngày của mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Công tác thông tin, tuyên truyền, định hướng dư luận về kết quả thực hiện Nghị quyết có lúc còn hạn chế, thiếu kịp thời.

Nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm trên là do: Những vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay là những vấn đề lớn, khó và phức tạp, trong đó có những vấn đề lớn đã tồn đọng kéo dài qua nhiều năm, nhiều nhiệm kỳ và liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, đòi hỏi phải có thời gian mới có thể khắc phục, giải quyết được.

Công tác chỉ đạo, kiểm tra, giám sát thực hiện Nghị quyết của một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa thường xuyên, chặt chẽ và thiếu kiên quyết. Một bộ phận cán bộ, đảng viên tính chiến đấu yếu, chưa gương mẫu, tự giác thực hiện, thậm chí còn nghi ngờ, thiếu tin vào kết quả thực hiện Nghị quyết.

4. Một số kinh nghiệm trong chỉ đạo thực hiện Nghị quyết:

(1). Trung ương đã lựa chọn đúng và trúng các vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay để ra Nghị quyết phù hợp với yêu cầu thực tiễn, đáp ứng tâm tư nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Khi có Nghị quyết, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cấp ủy, tổ chức đảng các cấp đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, sâu sát, cụ thể, với quyết tâm chính trị cao ngay từ khi tổ chức học tập, quán triệt Nghị quyết. Các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, nhất là người đứng đầu gương mẫu, tự giác thực hiện, có tác dụng làm gương cho cấp dưới và đảng viên học tập, noi theo.

(2). Việc chỉ đạo thực hiện Nghị quyết được tiến hành bài bản, khoa học, chặt chẽ, thận trọng; ba vấn đề cấp bách và 4 nhóm giải pháp nêu trong Nghị quyết đã được thể chế hóa, cụ thể hóa bằng các quy định, quy chế, quyết định, hướng dẫn của Trung ương tương đối kịp thời, đồng bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai thực hiện ở các cấp. Các cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo các cơ quan Trung ương đều xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện nghiêm túc, có sự phân công nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng, phù hợp với tình hình của địa phương, cơ quan, đơn vị.

(3). Việc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình tập thể, cá nhân ở các cấp được chỉ đạo chặt chẽ, nghiêm túc, với một số nội dung và cách làm mới so với các lần kiểm điểm trước đây đã đem lại hiệu quả cụ thể, thiết thực, như: lấy ý kiến góp ý trước kiểm điểm; kiểm điểm từ trên xuống dưới và nêu cao vai trò gương mẫu của người đứng đầu; cấp trên rà soát, gợi ý kiểm điểm đối với cấp dưới có vấn đề nổi cộm; sau kiểm điểm có kết luận ưu, khuyết điểm của tập thể, cá nhân và các tập thể, cá nhân phải xây dựng kế hoạch sửa chữa, khắc phục khuyết điểm; cấp ủy cấp trên đánh giá kết quả kiểm điểm của cấp dưới; v.v.

(4). Việc chuẩn bị, xem xét, thông qua các đề án, cơ chế, chính sách thực hiện Nghị quyết được tiến hành khẩn trương, chu đáo, đảm bảo chất lượng và kịp thời bổ sung, điều chỉnh, hoàn thiện những chủ trương đã ban hành nhưng chưa phù hợp với thực tiễn. Trong quá trình triển khai, thực hiện Nghị quyết, các cấp ủy, tổ chức đảng, nhất là người đứng đầu phải thường xuyên chỉ đạo, theo dõi , kiểm tra việc thực hiện; định kỳ đánh giá và rút kinh nghiệm kịp thời.

(Nguồn TTXVN)

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Nhìn lại 4 năm thực hiện Nghị quyết TW 4 về xây dựng Đảng