Luật sư có phải chịu trách nhiệm hình sự khi không tố giác tội phạm?

Nguyên Bình| 18/04/2017 06:30
Theo dõi Báo điện tử Công lý trên

Đó là vấn đề được giới luật sư (LS) quan tâm tại dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự 2015, được Đoàn LS Hà Nội tổ chức hội thảo lấy ý kiến vừa qua.

Khoản 3 Điều 19 BLHS 2015 quy định: “Người bào chữa không phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Ðiều này trong trường hợp không tố giác tội phạm do chính người mà mình bào chữa đã thực hiện hoặc đã tham gia thực hiện mà người bào chữa biết được khi thực hiện nhiệm vụ bào chữa, trừ trường hợp không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác quy định tại Điều 389 của Bộ luật này”.

Xét về mặt hình thức, đây là lần đầu tiên BLHS thể hiện quyền miễn trừ trách nhiệm hình sự của người bào chữa về hành vi này (không tố giác tội phạm) trong một số trường hợp, tuy nhiên, thực tế thì cũng sẽ gây nhiều khó khăn, bất lợi cho người bào chữa (thường là LS) khi thực hiện nhiệm vụ bào chữa.

Theo LS Nguyễn Chiến, Phó Chủ tịch Liên đoàn LS Việt Nam, Chủ nhiệm Đoàn LS Hà Nội, các tội xâm phạm an ninh quốc gia và tội đặc biệt nghiêm trọng khác quy định tại Điều 389 BLHS là rất rộng, có đến 83 tội. Điều đó tác động tâm lý người bào chữa, sợ “tai nạn nghề nghiệp” vì việc khách hàng trình bày với luật sư là khách quan mà không thể lường hết được. Trong khi đó, Điều 73 BLTTHS 2015 quy định LS không tiết lộ thông tin của  khách hàng. Điều 19 BLHS 2015 lại quy định tiết lộ thông tin do khách hàng cung cấp ở cấp độ cao hơn là tố giác tội phạm là trái với đạo đức nghề luật sư, làm xấu đi tình trạng thân chủ của mình. Không những thế, việc quy định như trên cũng dẫn đến hệ lụy quan hệ giữa LS với thân chủ. Nếu người bào chữa đi tố giác thân chủ do mình phải tận tâm để bảo vệ, bào chữa cho họ thì đương nhiên kể từ thời điểm LS tố giác, thân chủ sẽ mất niềm tin ở LS.

Luật sư có phải chịu trách nhiệm hình sự khi không tố giác tội phạm?

Quang cảnh hội thảo

Còn LS Huỳnh Phương Nam, thành viên Ban chủ nhiệm Đoàn LS Hà Nội cho rằng, về nguyên tắc, vấn đề “bí mật thông tin” của khách hàng đối với LS phải được đặt lên hàng đầu trong mối quan hệ của LS với khách hàng để bảo đảm tốt nhất lợi ích của khách hàng. Vì nếu không có sự chia sẻ thông tin một cách trung thực giữa người bị tình nghi, bị buộc tội với người bào chữa thì người bào chữa không thể hoàn thành tốt được nhiệm vụ bào chữa cho thân chủ của mình.

Trước ý kiến cho rằng, một LS cũng đồng thời là công dân, cũng phải có nghĩa vụ, trách nhiệm như mọi công dân, có nghĩa vụ phát hiện, tố giác hành vi phạm tội, LS Huỳnh Phương Nam lo ngại rằng, việc LS tố giác khách hàng lại mâu thuẫn với việc LS có nghĩa vụ giữ bí mật của khách hàng. “Trường hợp không tố giác thì vi phạm pháp luật - vi phạm nghĩa vụ công dân. Còn nếu tố giác thì vi phạm nguyên tắc đạo đức, ứng xử nghề nghiệp của mình”.

Để làm rõ hơn, LS Nam phân tích, điểm g khoản 2 Điều 73 BLTTHS 2015 cũng quy định người bào chữa có nghĩa vụ không được tiết lộ thông tin về vụ án, về người bị buộc tội mà mình biết khi bào chữa, trừ trường hợp người này đồng ý bằng văn bản. Đây chính là sự xung đột pháp luật ngay trong hai Bộ luật lớn vừa được ban hành (khoản 2 Điều 73 BLTTHS và khoản 3 Điều 19 BLHS). Trong khi đó, các quy định về nguyên tắc giữ bí mật thông tin khách hàng của LS nêu trên lại phù hợp với nguyên tắc hoạt động nghề nghiệp của LS trên thế giới.

Vì vậy LS Nam đề nghị sửa đổi, quy định quyền miễn trừ về tội này đối với người hoạt động nghề nghiệp bào chữa (kể cả người chưa/không được mời bào chữa) khi tiếp nhận thông tin từ khách hàng đến với mình; hoặc chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này đối với nhóm tội xâm phạm an ninh quốc gia và ở mức độ đặc biệt nghiêm trọng (theo khoản 4 Điều 9 BLHS 2015).

LS Tạ Văn Phú (Bắc Giang) cho rằng nếu quy định như vậy dễ dẫn đến việc LS rơi vào tình trạng “vướng án” vì khi trao đổi với thân chủ để làm sáng tỏ vụ án, tất cả thông tin thân chủ cung cấp cần được giữ kín, nếu tố giác có thể làm xấu đi tình trạng của thân chủ.

Đồng quan điểm, LS Lê Đăng Tùng cho rằng, nên bỏ quy định khoản 3 Điều 19 và nếu có quy định thì chỉ quy định với tội xâm phạm an ninh quốc gia. Thực tế, có trường hợp LS mất khá nhiều thời gian thu thập được tài liệu, khi đưa ra thì Tòa hoãn phiên tòa. Nhưng qua giám định thì văn bản này chỉ có con dấu đúng, còn chữ ký thì sai. Vì vậy, LS đã cung cấp chứng cứ bị rút giấy chứng nhận bào chữa, LS Tùng nêu ví dụ.

Ông Lê Đăng Doanh, giảng viên Bộ môn Luật hình sự, Đại học Luật Hà Nội phân tích: BLHS 2015 quy định cha, mẹ, con, vợ hoặc chồng của người phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng không tố giác cũng phạm tội. Vậy, so với mối quan hệ gia đình, mối quan hệ LS và khách hàng, thì mối quan hệ nào mạnh hơn? Theo ông Doanh, việc đề xuất loại bỏ khoản 3 Điều 19 khỏi BLHS phải có căn cứ. Nếu bỏ thì nên bỏ nhóm “tội đặc biệt nghiêm trọng” và phải đặt mối quan hệ nhà nước lên trên hết.

Chỉ ra thực tế trước đây về nguyên tắc, nếu LS không tố giác thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự, ông Nguyễn Văn Hoàn, Vụ phó Vụ hình sự - hành chính, Bộ Tư pháp, thành viên Tổ biên tập BLHS 2015 cho hay, với quy định lần này thực chất là hình thức “giảm nhẹ” trách nhiệm  cho LS .

PGS.TS Trần Văn Độ, nguyên Phó Chánh án TANDTC cho rằng đây là điều khoản loại trừ nên không thể bỏ đi được mà cần xác định và nhận thức rõ thế nào là bí mật khách hàng. Trách nhiệm của LS với thân chủ và LS với tư cách là công dân; nên cân nhắc quy định ở phạm vi nào, mức độ nào để sau này liên ngành hướng dẫn thực hiện. Tuy nhiên, cần phải giới hạn  ở một mức độ nhất định để LS hành nghề tốt nhất.

Đọc tiếp
(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Luật sư có phải chịu trách nhiệm hình sự khi không tố giác tội phạm?