Vang mãi bài ca giữ nước

Đời sống - Ngày đăng : 07:17, 15/12/2016

Trải ngàn năm, sử thi của cộng đồng các dân tộc Việt Nam tồn tại như một mạch ngầm bền bỉ. Trong kho tàng đồ sộ ấy còn có nhiều sử thi của các dân tộc trên Tây Bắc mang tinh thần bất khuất.

Những áng sử thi đó, nó như bài ca giữ nước đã, đang và sẽ vang mãi giữa đại ngàn.

“Cầm Hánh” đánh giặc cờ vàng

Là địa bàn định cư lâu đời của 23 dân tộc anh em gồm Thái, Mông, Lự, Hoa, Kinh, La Ha, Khơ Mú, Kháng, Xinh Mun, Tày, Nùng, Dao, Mường... song Tây Bắc được coi là thủ phủ, là vùng đất tổ của người Thái với số dân chiếm 51% trên tổng số dân cư. Hành trình di cư và phát triển của đồng bào Thái trên đất Việt là một câu chuyện dài. Trong đó, việc xung đột, chống cát cứ để tạo nên một “đế chế” Thái hùng mạnh dưới thời Tạo Ngân (thế kỷ XIV) đã tạo một bước chuyển quan trọng trong xã hội Thái, tạo nên một trong những nền văn hóa đặc sắc và rực rỡ nhất trong cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam.

Đến Mường Lò, sẽ không khó để được người già ở đây kể cho một đoạn sử thi được trích trong các sử thi di sản của dân tộc Thái như “Táy Pú Xấc” (có nghĩa là người Thái đánh giặc) hoặc “Căm Hánh tặp sấc klương” (Cầm Hánh đánh giặc cờ vàng). Giới nghiên cứu văn hóa dân gian nhận định, “Táy Pú Xấc” là bộ sử thi lớn ghi lại lịch sử “Chinh chiến” của dân tộc Thái qua 50 đời Tạo từ thời Tạo Lò (con Tạo Ngân) kéo dài đến Kam Nho.

Các sự kiện lịch sử được ghi trong “Táy Pú Xấc” khá chi tiết, ấn tượng nên rất có giá trị về mặt lịch sử cũng như văn hóa xã hội. Sau hàng chục năm bền bỉ, công trình sưu tầm và biên dịch sử thi “Táy Pú Xấc” của nhà nghiên cứu văn hóa Lường Vương Trung là một bản khá đầy đủ, giúp cho giới nghiên cứu và những độc giả yêu thích văn hóa Thái một cái nhìn sâu sắc hơn về dân tộc anh em này. Theo 50 đời Tạo chinh chiến giữ đất đai của tổ tiên, mở mang lãnh thổ, các thế hệ người Thái đã trải qua nhiều tao loạn, thăng trầm để giữ được thế ổn định cả về đối nội lẫn đối ngoại.

Được viết theo lối hát “khắp” truyền thống vốn được coi là làn điệu dân ca được dùng rộng rãi trong sinh hoạt văn hóa đời thường và nghi lễ của cộng đồng Thái, “Táy Pú Xấc” cho thấy quá trình thiên di xuống phía Nam của dân tộc Thái đầy gian truân qua hai đợt chính là vào khoảng thế kỉ thứ IX - X và đầu thế kỷ thứ XI. Sau nhiều lần tranh chấp với cư dân bản địa, cũng như chinh phạt xóa đi tình trạng cát cứ, thống nhất được Tây Bắc, họ đã trở thành chủ nhân một vùng đất rộng lớn với đặc điểm “vùng đất ba dải, miền chín lưu vực con sông”. Mường Muổi được chọn là thủ phủ. Chế độ quân sự của xã hội Thái cũng khá linh động. Địa thế hiểm trở không cho phép họ có một đội quân thường trực mà chỉ tập hợp quân theo mỗi kỳ chinh chiến. Họ còn phân định ranh giơi qua câu thành ngữ “Cuối sông Đà nổi tiếng Vua Kinh. Đầu sông Đà nổi tiếng Tạo Lay”.

Vang mãi bài ca giữ nước

Nghệ nhân Lò Văn Biến (bên trái), người dày công sưu tầm sử thi “Cầm Hánh đánh giặc cờ vàng”

Nếu “Táy Pú Xấc” đã trở thành một áng hùng thi của ngàn năm thì “Cầm Hánh đánh giặc cờ vàng” lại là câu chuyện của một giai đoạn mà trong đó, người Thái Đen cùng nhân dân các dân tộc Mường Lò là chủ thể khởi nghĩa chống giặc khăn vàng từ phương Bắc xâm lược nước ta dưới sự lãnh đạo của thủ lĩnh Cầm Hánh. Là sự thật lịch sử từng diễn ra tại Mường Lò. Người Thái ở đây cũng như đồng bào Thái cả nước đều vô cùng tự hào về trang sử chiến đấu bảo vệ tổ quốc bằng thơ.

Nghệ nhân Lò Văn Biến, bản Cang Nà, thị xã Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái, là người đã dành nhiều tâm sức để sưu tầm và dịch lại bộ sử thi này từ các nghệ nhân cao tuổi khác để văn bản hóa tác phẩm. Trong đócó đoạn: “Giặc cờ vàng âm mưu xâm chiếm nước ta. Ở Mường Lò có 4 anh em là Cầm Hánh, Cầm Chiêu, Cầm Tú và Cầm Hiệp đứng lên chiêu mộ nghĩa quân đánh giặc và đã đánh thắng nhiều trận lớn. Quân giặc dùng kế hiểm hạ được thành Viềng Công, Cầm Tám phải mở đường máu rút sang Mường Tấc (Phù Yên - Sơn La) lánh nạn. Cầm Hánh thế cô, bị vây bốn bề đành cho quân sĩ lên các bản người Mông, Dao… lánh nạn, còn ông dùng thanh gươm chiến của mình tự sát để giữ tròn khí tiết. Bởi vậy ngày nay, người Thái, Mông, Dao vẫn coi nhau như anh em ruột thịt.Cuộc khởi nghĩa chống giặc ngoại xâm không thành nhưng đã khơi dậy ý chí đấu tranh quật cường của người Thái và bà con các dân tộc Mường Lò, không chịu làm kiếp ngựa trâu”.

“Phùy ca” nơi cuối trời Tây Bắc

Với dân số trên 21 ngàn người, hiện diện tại 63 tỉnh thành phố, dân tộc Hà Nhì đã góp thêm một sắc màu văn hóa rực rỡ và giàu giá trị nhân bản trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Trong kho tàng văn hóa dân gian ấy, truyên thơ dài “Phuỳ ca Na ca” (còn được gọi là Xa Nhà Ca) có thể được xem như là một sử thi đúng nghĩa. Trước đó, các học giả Trung Quốc cũng đã xếp “Phuỳ ca Na ca” của cộng đồng người Hà Nhì nước mình vào thể loại sử thi với cái tên “Khai thiên lập địa ca”. 

Sẽ không mất quá nhiều thời gian để nghe trọn bộ Há pà “Phuỳ ca Na ca”  từ đồng bào Hà Nhì ở vùng biên Tây Bắc. Nhóm Hà Nhì Cồ Chồ là chủ nhân của bộ sử thi dài 932 câu thơ với nhiều thể loại khác nhau. Ra đời giữa bối cảnh xã hội của dân tộc này chưa hình thành giai cấp, có nghĩa bộ sử thi “Phuỳ ca Na ca” có thể đã có từ hơn 500 năm trước, khi người Di (tổ tiên của dân tộc Hà Nhì) ở Tây Tạng bắt đầu chuyến viễn du về phương Nam và kết thúc khi đến vùng đất đầu nguồn Khó Ma, ngày nay thuộc địa phận xã Pa Ủ, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu.

Điều rất lý thú là khi miêu tả về vùng đất mới thuộc cương thổ của nước Đại Việt xưa, sử thi “Phuỳ ca Na ca” chỉ ra rằng, Khó Ma là “nơi có nhiều sản vật” và “uống rượu ngọt không cần phải trộn men, hạt cơm ăn cũng chẳng dùng chày giã” (trích sử thi). Loại cây thần kỳ đó của người Hà Nhì chính là cây báng, móc, cọ… là những loại cây trong lõi có bột, hiện vẫn được người La Hủ trên địa bàn dùng để ăn và nấu rượu.

Nghệ nhân Pờ Lóng Tơ ở xã Mù Cả, huyện Mường Tè, tình Lai Châu hiện là người duy nhất trong cộng đồng người Hà Nhì ở Việt Nam còn lưu giữ được nguyên vẹn sử thi “Phuỳ ca Na ca”. Ông tự hào nói rằng, dẫu có kết cục bi thảm, song  nhiều trường đoạn kể về sự chiến đấu dũng mãnh của người Hà Nhì chống lại người Hán rất hấp dẫn và nhiều lần nhắc đi nhắc lại một mệnh đề như khẳng định quyết tâm giữ đất của người Hà Nhì.

Vang mãi bài ca giữ nước

Người Hà Nhì luôn tự hào về “Phuỳ ca Na ca”

Hình ảnh một bản Hà Nhì với hệ thống phòng thủ rất nghiêm ngặt như một làng chiến đấu được gợi tả trong những câu thơ “Có hàng rào đan bằng dây thép/Bao bọc bảo vệ khắp xung quanh/Bản ở giữa cũng bao hàng rào thép/Bảy mươi đôi cọc cắm đều nhau. Chúa tể rừng xanh con voi to đuôi ngắn/Tổ tiên ta thuần phục được nó về/Để giữ ranh giới Hà Nhì - Hán/Trấn thủ dòng Ha Sa nước lớn/Là con rồng lặn dưới đáy sông sâu”. Cùng với đó là thái độ kiên quyết không nương tay với những kẻ có âm mưu xâm lược đất đai của người Hà Nhì: “Nếu một ngày trâu ngựa bước chân sang/Sẽ đánh cho chết ngay lập tức/Cho phân mốc xương mục ngay tức khắc/Đánh cho chân ngựa chổng lên trời/Đánh cho ruột ngựa phơi ra đất…”.

Một yếu tố khác cần nhấn mạnh về Há pà “Phuỳ ca Na ca” là tác phẩm này biểu đạt nhiều thông tin quan trọng về xã hội, truyền thống nông nghiệp và phong tục tập quán của cộng đồng người này. Có thể nhận thấy vào giai đoạn muộn của kỳ cổ sơ, trình độ làm ruộng nước của họ đã rất phát triển với kĩ thuật cấy mạ giống như người Kinh chứ không tra hạt hay gieo xạ như các dân tộc vùng cao khác.

Với những giá trị như vậy, muốn được nghe hát “Phuỳ ca Na ca”, thường phải chờ đến ngày Tết. Nguyên do là cũng giống như nhiều dân tộc khác, người Hà Nhì cũng phải “làm lý” để xin phép tổ tiên, thần linh trước khi hát. Một mâm cơm trên đó nhất thiết cần có một con gà và hai chén rượu được dâng lên, sau khi khấn vái mời bề trên về ăn thịt, uống rượu và nghe con cháu hát, người chủ lễ đồng thời là người hát sẽ ngân nga từ đầu sử thi. Vừa uống vừa hát, vừa đưa tay ra điệu bộ và diễn nét mặt theo nội dung lời hát, khi mệt, sẽ có người khác đỡ lời để câu hát luôn liền điệu, liền vần.

“Táy Pú Xấc”, “Cầm Hánh đánh giặc cờ vàng”, “Phuỳ ca Na ca”… cùng rất nhiều trang sử thi sống động khác của đồng bào dân tộc thiểu số không chỉ mang giá trị lịch sử, văn học trong cộng đồng tộc người mà còn là một phần quan trọng trong di sản văn hóa dân gian đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Nó còn thể hiện được tinh thần đoàn kết, khí phách cha ông ta trong suốt ngàn năm dựng nước và giữ nước.  

Nam Hoàng