Áp dụng nguyên tắc “suy đoán vô tội” trong tố tụng để tránh oan sai

Chính trị - Ngày đăng : 16:41, 10/04/2015

Sáng nay 10/4, UBTVQH báo cáo kết quả giám sát về tình hình oan sai trong việc áp dụng pháp luật về tố tụng hình sự và bồi thường thiệt hại cho người bị oan. Chánh án TANDTC Trương Hòa Bình, Phó Chánh án TANDTC Nguyễn Sơn tham dự phiên họp.

Áp dụng nguyên tắc “suy đoán vô tội” trong tố tụng để tránh oan sai

Chánh án TANDTC Trương Hòa Bình phát biểu tại phiên họp

Hoạt động tố tụng hình sự cơ bản đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật

Theo báo cáo của UBTVQH, qua giám sát nhận thấy, trong những năm gần đây, tình hình phạm tội tiếp tục diễn biến phức tạp, gia tăng số vụ, số người phạm tội, thủ đoạn phạm tội tinh vi, xảo quyệt nhưng Cơ quan điều tra (CQĐT), Viện kiểm sát, Tòa án các cấp đã có nhiều nỗ lực, tích cực đấu tranh phòng, chống tội phạm; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Về cơ bản hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Các cơ quan đã triển khai áp dụng nhiều biện pháp để chấn chỉnh khắc phục tồn tại, thiếu sót trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, nhờ đó tình hình oan, sai đã giảm so với trước đây.

Trong kỳ giám sát, khởi tố, điều tra 219.506 vụ với 338.379 bị can nhưng số vụ làm oan người vô tội trong 3 năm có 71 trường hợp, chiếm 0,02%, trong đó CQĐT đình chỉ 31 bị can do không có sự việc phạm tội, 12 bị can do hết thời hạn điều tra không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm; VKS đình chỉ 9 bị can do không có sự việc phạm tội, 19 trường hợp bị Tòa án tuyên không phạm tội và bản án đã có hiệu lực pháp luật.

Tuy số trường hợp oan, sai không nhiều nhưng hậu quả gây ra là hệ trọng, có vụ đặc biệt nghiêm trọng gây bức xúc trong dư luận (như vụ 7 thanh niên ở Sóc Trăng bị bắt giam oan; vụ 5 Công an ở Tuy Hòa, Phú Yên dùng nhục hình dẫn đến chết người).

Áp dụng nguyên tắc “suy đoán vô tội” trong tố tụng để tránh oan sai

Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, Phó Trưởng Đoàn giám sát Nguyễn Văn Hiện trình bày báo cáo giám sát. 

Qua giám sát cho thấy một số vụ án đặc biệt nghiêm trọng mà dư luận quan tâm thì có những vụ án đã xảy ra từ những năm trước, đến nay có vụ đã được giám đốc thẩm, quá trình điều tra, truy tố, xét xử lại cơ bản khắc phục được những thiếu sót, vi phạm về thủ tục tố tụng như vụ Lê Bá Mai (Bình Phước); bản án phúc thẩm sau cùng năm 2013 có hiệu lực pháp luật kết án Lê Bá Mai tù chung thân về tội “Hiếp dâm trẻ em” và “Giết người” là có căn cứ, không sai.

Đối với vụ Hồ Duy Hải (Long An) bị kết án tử hình về tội “Giết người” và “Cướp tài sản” có những vi phạm về thủ tục, hiện nay các cơ quan có thẩm quyền đang tiến hành xem xét. Đối với các vụ được nhiều cử tri quan tâm như vụ: Huỳnh Văn Nén (Bình Thuận) bị kết án chung thân về tội “Giết người” và “Cướp tài sản”; vụ Đỗ Minh Đức (Hải Phòng) bị kết án chung thân về tội “Giết người”; vụ Hàn Đức Long (Bắc Giang) bị kết án tử hình về tội “Hiếp dâm trẻ em” và “Giết người” và vụ Đỗ Thị Hằng (Bắc Giang) bị kết án về tội “Mua bán phụ nữ” chưa có căn cứ xác định bị oan nhưng đã xác định có những vi phạm nghiêm trọng trong điều tra, truy tố, xét xử. Hiện nay các vụ án này đang điều tra lại.

Phần lớn các địa phương trong nhiều năm chưa phát hiện thấy trường hợp nào làm oan người vô tội, kể cả những nơi mặc dù có lượng án rất lớn. Tuy nhiên, có một số địa phương tuy số lượng án không nhiều nhưng lại để xảy ra một số vụ làm oan nghiêm trọng như Sóc Trăng, Bình Phước, Bình Thuận, Bắc Giang. Hầu hết các trường hợp bị oan trong những năm gần đây được phát hiện đều đã được khắc phục ngay trong giai đoạn điều tra, truy tố. Tuy nhiên, cũng có trường hợp bị oan chưa được xử lý kịp thời.

Trình độ pháp luật và năng lực nghiệp vụ của một bộ phận cán bộ tư pháp còn hạn chế

Qua giám sát cho thấy, quá trình điều tra, truy tố, xét xử còn có những sai phạm chủ yếu dẫn đến oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Nhiều trường hợp bắt, tạm giữ, tạm giam còn chưa chính xác, sau đó phải chuyển xử lý hành chính; tình trạng tạm giam bị can về tội ít nghiêm trọng còn nhiều, có biểu hiện lạm dụng. Xảy ra một số vụ dùng nhục hình, có trường hợp dẫn đến chết người gây bức xúc dư luận. Có những trường hợp khởi tố, điều tra, truy tố thiếu căn cứ; nhiều vụ án còn để kéo dài; có 11 vụ đã trên 5 năm đến nay chưa giải quyết xong, cá biệt ở Bình Phước có vụ trên 12 năm.

Áp dụng nguyên tắc “suy đoán vô tội” trong tố tụng để tránh oan sai

Đại biểu Nguyễn Kim Khoa phát biểu ý kiến

Việc đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án miễn trách nhiệm hình sự theo Điều 25 BLHS có những trường hợp chưa chính xác, có dấu hiệu làm oan, bỏ lọt tội phạm. Việc truy tố, xét xử còn có những trường hợp sai tội danh, sai khung hình phạt; có nơi Tòa án áp dụng hình phạt quá nặng đối với người lao động, nhất thời phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; ngược lại, có những trường hợp lại tuyên hình phạt quá nhẹ, cho bị cáo hưởng án treo không đúng pháp luật, nhất là tội về kinh tế, chức vụ, tham nhũng.

Báo cáo cũng đã chỉ rõ các nguyên nhân như, trình độ pháp luật và năng lực nghiệp vụ của một bộ phận cán bộ tư pháp còn hạn chế, chưa được đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức thường xuyên. Trong đó, có nguyên nhân đáng chú ý là có biểu hiện đem “nguyên tắc suy đoán có tội” thay cho “nguyên tắc suy đoán vô tội”, từ đó có thái độ đối xử với người bị bắt, bị can, bị cáo như là người có tội. Có trường hợp còn bảo thủ, định kiến trong giải thích và áp dụng pháp luật theo hướng bất lợi cho bị can, bị cáo.

Đội ngũ cán bộ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán vừa thiếu về số lượng, một bộ phận còn yếu về chất lượng. Một bộ phận còn yếu kém về phẩm chất, đạo đức, buông lỏng trách nhiệm trong thi hành công vụ; nhiều trường hợp đã bị xử lý kỷ luật, truy cứu trách nhiệm hình sự về các hành vi làm sai lệch hồ sơ vụ án, quyết định trái pháp luật, dùng nhục hình, nhận hối lộ;....

Đồng tình với nhiều nội dung trong báo cáo giám sát, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Phan Trung Lý cũng đã nhấn mạnh đến nguyên tắc “suy đoán vô tội” trong tố tụng hình sự để tránh oan sai. Như vụ ông Nguyễn Thanh Chấn, nếu ngay đầu tiên áp dụng nguyên tắc này thì đã không có chuyện cố chứng minh ông Chấn phạm tội, dựng lại hiện trường dẫn tới oan sai.

Áp dụng nguyên tắc “suy đoán vô tội” trong tố tụng để tránh oan sai

Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Phan Trung Lý phát biểu ý kiến. 

Bên cạnh đó cũng đề nghị bổ sung thêm nguyên nhân việc xử lý vi phạm trong điều tra, truy tố, xét xử, bản thân nội bộ các ngành này đã có cố gắng gì để xử lý nghiêm minh, có bao che sai phạm của cán bộ mình hay không, có vì thành tích hay cố gói gọn lại, cố không xử lý để bảo đảm thành tích của đơn vị mình hay không?

Ông Lý cho rằng, việc xử lý vi phạm trong tố tụng gây oan sai, bức cung, nhục hình gây chết người một số nơi, có lúc chưa nghiêm, có hiện tượng bao che, dung túng. Từ tình hình giám sát thì những nguyên nhân cũng cần phải nêu lên. Nhiều vụ án khi báo chí vào cuộc, có sự chỉ đạo làm nghiêm và khi làm nghiêm thì kết quả ngược lại, như vậy lỗi do người thi hành công vụ chứ không phải do nguyên nhân khác.

Xem xét trách nhiệm của các cơ quan tố tụng để xảy ra oan sai

Phó Chánh án TANDTC Nguyễn Sơn cũng đề nghị phân tích kỹ lại một số nội dung mà báo cáo giám sát đã nêu.

Như báo cáo giám sát nêu việc “có dấu hiêu bỏ lọt tội phạm 186 bị cáo ở VKS và Tòa án cũng vậy”. Phó Chánh án Nguyễn Sơn cho rằng, thực ra có nhiều vụ án Tòa trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung, trong đó đề nghị khởi tố thêm người phạm tội, tội phạm hoặc yêu cầu ra quyết định đình chỉ điều tra, nhưng VKS không chấp nhận, nên Tòa vẫn buộc phải xét xử các hành vi, tội danh mà VKS truy tố. Cho nên cần viết như thế nào cho thuyết phục hơn.

Phó Chánh án cũng thẳng thắn thừa nhận, trong một số trường hợp đúng là Tòa án bỏ lọt vì không xác định được, không phát hiện ra nên không trả hồ sơ yêu cầu bổ sung, trong trường hợp đó là lỗi của Tòa.

Báo cáo cũng nêu “trong số 47 bị cáo Tòa án sơ thẩm tuyên không phạm tội thì 43 trường hợp bị kháng nghị phúc thẩm, trong đó 32 trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm hủy án để điều tra, xét xử lại và tuyên 14 bị cáo có tội”, thì cần xem là bao nhiêu trường hợp Tòa án trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung rồi nhưng CQĐT, VKS không làm được thì buộc Tòa án phải tuyên không phạm tội, Tòa án không thể tuyên có tội để rồi phải gánh chịu hậu quả oan sai.

Phó Chánh án nhấn mạnh, trong trường hợp như vậy cần xem xét Tòa án trả hồ sơ như thế nào, có trả hay không để xem xét trách nhiệm thuộc về Tòa án hay thuộc về cơ quan tố tụng. Vì Tòa án là cơ quan tố tụng cuối cùng, lúc đó không như tố tụng hình sự hiện nay định hướng trong trường hợp Tòa án trả hồ sơ nhưng CQĐT, VKS không bổ sung được chứng cứ theo yêu cầu thì Tòa án có quyền xác minh và bổ sung chứng cứ. Để đảm bảo Tòa án tuyên có tội hay không rõ ràng, trong luật tố tụng hiện nay đang đi theo hướng này để đảm bảo minh bạch, tránh oan sai.

Phó Chánh án Nguyễn Sơn cũng dẫn chứng, trong báo cáo đề cập đến việc “Tòa án cấp phúc thẩm còn nhận định sai, không đúng pháp luật để hủy án sơ thẩm điều tra lại, sau đó vụ án bị đình chỉ tiềm ẩn việc bỏ lọt tội phạm và việc bồi thường đối với trường hợp này có dấu hiệu sai. Điển hình như vụ án Nguyễn Minh Sang (ở Châu Thành, Tiền Giang) bị bản án sơ thẩm tuyên 9 tháng tù về tội trộm cắp nhưng bản án phúc thẩm của tỉnh Tiền Giang với nhận định “việc truy tìm vật chứng không phải do CQĐT tiến hành mà do người bị hại qua nhà lục xét mang giao nộp là vi phạm tố tụng nghiêm trọng” nên đã hủy án sơ thẩm trả hồ sơ điều tra lại dẫn đến đình chỉ điều tra...là có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm”.

“Vụ án này tôi đã đi giám sát trực tiếp, qua nghiên cứu hồ sơ thấy rằng việc Tòa án hủy án là đúng vì CQĐT, VKS cấp sơ thẩm đã không tiến hành được đầy đủ việc thu thập chứng cứ, thực nghiệm điều tra ở giai đoạn điều tra. Tòa án cấp phúc thẩm đúng, sai là ở giai đoạn điều tra” - Phó Chánh án Nguyễn Sơn nhấn mạnh.

Báo cáo nêu “Trong kỳ, tổng số tiền phải bồi thường cho các trường hợp tuy không lớn (khoảng trên 30 tỷ đồng) nhưng việc bồi thường cơ bản còn chậm, hiện đang có một số vụ người bị oan đề nghị bồi thường với số tiền rất lớn như vụ ông Nguyễn Thanh Chấn (Bắc Giang) hơn 9 tỷ đồng; vụ ông Lương Ngọc Phi (Thái Bình) trên 22 tỷ đồng và kéo dài 9 năm đến nay chưa giải quyết xong”.

Về nội dung này, Chánh án TANDTC Trương Hòa Bình đề nghị báo cáo phải bổ sung thêm “việc đẩy nhanh giải quyết bồi thường phải có câu “giải quyết bồi thường đúng pháp luật”, chứ không  thể nhanh mà không đúng.

Như vụ án Nguyễn Thanh Chấn, hiện nay TANDTC đang thụ lý đơn, theo quy định của pháp luật thì ông Chấn phải chứng minh, cung cấp tài liệu theo quy định của pháp luật thì Tòa mới có thể giải quyết việc bồi thường. Còn Luật quy định có rườm rà, vướng mắc thì phải sửa, chứ Tòa án không thể không làm đúng quy định của pháp luật.

Vụ án Lương Ngọc Phi ở Thái Bình cũng vậy. Tòa án đã tiến hành bồi thường 600 triệu, nhưng ông Phi đòi bồi thường tài sản lên đến 22 tỷ đồng, cấp sơ thẩm chấp nhận, nhưng giám đốc thẩm thấy rằng đòi 22 tỷ là không có căn cứ, do vậy đã đề nghị giải quyết lại theo quy định của tố tụng và hiện nay Tòa án đang giải quyết theo quy định của pháp luật.

Liên quan đến vấn đề trả hồ sơ điều tra bổ sung, Chánh án TANDTC Trương Hòa Bình cho biết, khi vụ án không đủ căn cứ mà VKS vẫn truy tố, Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung, trả nhiều lần nhưng vẫn truy tố mà không đủ căn cứ thì Tòa án vẫn phải tuyên không phạm tội. Còn tuyên vô tội rồi nhưng sau đó Công an, VKS điều tra mà ra kết quả khác thì cũng rất đáng lo, nhưng chúng ta vẫn phải chấp nhận, nền văn minh pháp lý là phải như vậy.

“Vấn đề này tới đây đề nghị quy định rõ trong Bộ luật Tố tụng hình sự, vì Luật Tổ chức Tòa án đã quy định và Quốc hội cũng đã quyết định là Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung mà vẫn thấy chưa đảm bảo đầy đủ chứng cứ theo quy định của pháp luật thì Tòa án có kết luận là có đủ căn cứ để đưa ra xét xử hay không thì sửa Bộ luật Tố tụng hình sự phải đưa vào. Về phía Ban cán sự Đảng TANDTC vẫn kiên quyết thực hiện theo tinh thần của Luật” - Chánh án Trương Hòa Bình nhấn mạnh.

Mai Thoa