Bảo đảm phục vụ Kỳ họp thứ 8 chu đáo, an toàn, tiết kiệm
Chính trị - Ngày đăng : 16:08, 08/10/2014
Tích cực chuẩn bị Kỳ họp thứ 8
Báo cáo một số vấn đề chuẩn bị Kỳ họp thứ 8, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc cho biết, dự kiến thời gian tiến hành kỳ họp là 33 ngày làm việc chính thức, trong đó Quốc hội làm việc 3/5 ngày thứ 7. Do có sự thay đổi trong bố trí làm việc vào các ngày thứ 7 nên kỳ họp sẽ bế mạc vào thứ 6, ngày 28/11/2014.
Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội cho biết, trong điều kiện cho phép, Văn phòng Quốc hội đã tích cực phối hợp với các cơ quan hữu quan rà soát việc chuẩn bị cơ sở vật chất, kỹ thuật, hậu cần, an ninh, an toàn, thông tin, tuyên truyền về kỳ họp… bảo đảm phục vụ kỳ họp chu đáo, an toàn, tiết kiệm.
Trên cơ sở tiếp thu ý kiến của các Đoàn đại biểu Quốc hội, các vị đại biểu Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan hữu quan, Văn phòng Quốc hội đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét điều chỉnh nội dung kỳ họp như sau: rút nội dung trình Quốc hội xem xét, thông qua Nghị quyết về việc tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình thế giới; bổ sung nội dung trình Quốc hội xem xét, thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật thuế; bổ sung nội dung Quốc hội nghe Chính phủ báo cáo về tình hình Biển Đông.
Văn phòng Quốc hội bổ sung các báo cáo gửi đại biểu Quốc hội nghiên cứu về một số vấn đề: việc triển khai thực hiện Pháp lệnh người có công và Pháp lệnh Bà mẹ Việt Nam anh hùng; tình hình vệ sinh, an toàn thực phẩm; tình hình triển khai Dự án nâng cấp, mở rộng Quốc lộ 1A; tình hình người nghiện ma túy trong phạm vi cả nước; việc thực hiện các biện pháp cai nghiện đối với người nghiện ma túy và công tác quản lý đối với người sau cai nghiện đang sống trong cộng đồng dân cư; tình hình lao động nước ngoài.
Trên cơ sở nghiên cứu các ý kiến đóng góp, cân nhắc kỹ các nội dung, cách thức tiến hành, thời gian nghiên cứu tài liệu của đại biểu, tổng thời gian tiến hành kỳ họp, Văn phòng Quốc hội dự kiến tiếp thu, bố trí sắp xếp một số nội dung theo nhóm chức năng, lĩnh vực; bố trí thảo luận gần nhau đối với các dự án luật có nội dung liên quan; ghép nội dung mới bổ sung với các nội dung liên quan; bố trí truyền hình, phát thanh trực tiếp phiên họp tại hội trường thảo luận về Đề án đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông. Điều chỉnh thời điểm bố trí một số nội dung để bảo đảm quy trình, cách thức tiến hành, có thời gian tiếp thu, chỉnh lý các dự án, đề án...
Cơ bản tán thành với nhiều nội dung trong báo cáo của Văn phòng Quốc hội, một số ý kiến đề nghị nghiên cứu sắp xếp chương trình hợp lý. Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu đề nghị một số dự thảo luật liên quan nên sắp xếp vào các nhóm liền kề nhau; việc thảo luận dự thảo Luật tổ chức Chính phủ (sửa đổi) cần diễn ra trước thảo luận dự thảo Luật tổ chức chính quyền địa phương. Trưởng ban Dân nguyện Nguyễn Đức Hiền đánh giá, số lượng báo cáo gửi tới các đại biểu Quốc hội quá nhiều, đề nghị cần nghiên cứu, gom vào các vấn đề cùng lĩnh vực gửi đại biểu Quốc hội. Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Nguyễn Văn Phúc đề nghị cần tăng thời lượng thảo luận các dự án luật quan trọng tại kỳ họp này...
Giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống biến đổi khí hậu ở ĐBSCL
Thực hiện chương trình hoạt động giám sát năm 2014 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Đoàn giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thực hiện giám sát “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống biến đổi khí hậu ở đồng bằng sông Cửu Long”. Qua giám sát để đánh giá những kết quả đạt được, hạn chế, yếu kém và nguyên nhân đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật về ứng phó với biến đổi khí hậu. Từ đó đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm tăng cường việc thực hiện chính sách, pháp luật về ứng phó với biến đổi khí hậu. Đoàn đã g iám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về ứng phó với biến đổi khí hậu; việc tổ chức thực hiện các dự án, chương trình mục tiêu quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn từ năm 2007 đến nay tại 13 tỉnh, thành phố thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Qua giám sát cho thấy, biến đổi khí hậu tác động đến đồng bằng sông Cửu Long rất phức tạp, có sự khác nhau giữa các địa phương, ngay trong một tỉnh, thậm chí trên cùng một huyện, xã, một khu vực ven biển. Có nơi mối đe dọa chủ yếu là sạt lở như ở Trà Vinh, Bến Tre, Cà Mau cũng có nơi chịu ảnh hưởng lớn từ nước biển dâng và triều cường như Tp.Hồ Chí Minh, Vĩnh Long, Tp. Cần Thơ...
Theo thống kê của Đoàn giám sát, 13 tỉnh, thành phố đồng bằng sông Cửu Long đã ban hành 89 văn bản các loại đối với việc thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và phê duyệt danh mục dự án đầu tư trong lĩnh vực ứng phó với biến đổi khí hậu. Tất cả các tỉnh, thành phố thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long đã xây dựng và ban hành Kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu, tập trung đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đến các lĩnh vực, ngành, khu vực, đặc biệt là các lĩnh vực và khu vực nhạy cảm, dễ bị tổn thương do tác động của biến đổi khí hậu như: Lĩnh vực đất đai, nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, tài nguyên nước…
Tuy nhiên, Đoàn giám sát đánh giá hầu hết các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long đã ban hành văn bản quy phạm pháp luật về ứng phó với biến đổi khí hậu, nhưng không ít văn bản chưa thực sự dựa trên điều kiện cụ thể, tính đặc thù và mức độ tác động của biến đổi khí hậu đang diễn ra tại địa phương. Việc lồng ghép kế hoạch, chiến lược ứng phó với biến đổi khí hậu vào các chương trình dự án, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội còn nhiều hạn chế; khả năng liên kết vùng, liên kết ngành trong việc triển khai các chính sách về ứng phó với biến đổi khí hậu còn yếu, chưa có cơ chế liên kết giữa các tỉnh cũng như trong toàn vùng một cách hiệu quả. Nguồn lực cho ứng phó với biến đổi khí hậu còn rất hạn chế, phân tán từ nhiều nguồn, cơ chế phân bổ vốn cho biến đổi khí hậu còn bất cập. Kịch bản biến đổi khí hậu chưa được cập nhật, hoàn thiện kịp thời để bảo đảm độ tin cậy cao, khách quan, cụ thể; hệ thống thông tin và dữ liệu về biến đổi khí hậu, nước biển dâng gắn với mô hình số độ cao và hệ thống thông tin địa lý, viễn thám phục vụ hoạch định chính sách, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện biến đổi khí hậu và nước biển dâng từ trung ương đến địa phương chưa được tăng cường...
Đoàn giám sát đề nghị, cần tập trung một số giải pháp cụ thể đối với vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đó là tăng cường quản lý nhà nước, tổ chức thực hiện ứng phó với biến đổi khí hậu: cập nhật kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng và xây dựng bản đồ ngập lụt có độ tin cậy cao để các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long chủ động xây dựng phương án ứng phó với biến đổi khí hậu. Xây dựng kế hoạch hành động thích ứng với biến đổi khí hậu vùng đồng bằng sông Cửu Long vừa mang tính cấp bách trước mắt vừa mang tính chiến lược lâu dài nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội; tăng cường sự tham gia của người dân vào việc hoạch định chính sách và phát huy tri thức bản địa để người dân chủ động hạn chế tác hại của lũ đồng thời khai thác các lợi ích do lũ mang lại một cách phù hợp... Quản lý, thực hiện tốt chương trình, kế hoạch, dự án ứng phó với biến đổi khí hậu; triển khai đồng bộ pháp luật về bảo vệ môi trường; phòng, chống thiên tai, sử dụng tài nguyên; tăng cường hợp tác quốc tế và đa dạng hóa các nguồn lực; thúc đẩy ứng dụng khoa học và công nghệ; đổi mới công tác tuyên truyền giáo dục, nâng cao nhận thức…
Đoàn giám sát kiến nghị ban hành nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về kết quả giám sát và đẩy mạnh việc thực hiện chính sách, pháp luật về ứng phó với biến đổi khí hậu ở đồng bằng sông Cửu Long. Cân nhắc đề xuất của Chính phủ là ban hành Nghị quyết của Quốc hội về đẩy mạnh thực hiện chính sách, pháp luật ứng phó với biến đổi khí hậu.
Theo đó, nâng nội dung giám sát chuyên đề này thành chương trình giám sát tối cao của Quốc hội. Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành chủ trì, phối hợp với các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long nghiên cứu, rà soát các dự án về ứng phó với biến đổi khí hậu và trình Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư dự án, công trình quan trọng quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu ở đồng bằng sông Cửu Long; nghiên cứu đưa nội dung về ứng phó với biến đổi khí hậu là một trong các nội dung của Nghị quyết phát triển kinh tế- xã hội hằng năm và năm năm; lồng ghép các vấn đề về ứng phó với biến đổi khí hậu trong quá trình xem xét, thông qua các dự án luật, pháp lệnh liên quan; hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách về biến đổi khí hậu. Tăng cường hợp tác quốc tế về biến đổi khí hậu của Quốc hội, đặc biệt là vấn đề chia sẻ, sử dụng tài nguyên nước sông Hồng, sông Mê Kông với các quốc gia trong khu vực...
Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội Trương Thị Mai đề nghị cần có sự lồng ghép các chương trình, dự án, kế hoạch... về biến đổi khí hậu để tăng tính hiệu quả trong thực hiện, tránh sự chồng chéo, lãng phí. Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Ksor Phước cho rằng nguồn lực đầu tư cho biến đổi khí hậu hiện còn dàn trải.
Nói rõ về vấn đề này, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đặng Huy Đông cho biết, khu vực vốn đầu tư cho các chương trình ứng phó với biến đổi khí hậu đã tăng hơn 2,2 lần từ năm 2009 đến năm 2013.
Trưởng ban Dân nguyện Nguyễn Đức Hiền đánh giá Báo cáo của Đoàn giám sát cần làm rõ hơn về tính liên kết vùng trong ứng phó với biến đổi khí hậu, hiện chưa có cơ chế liên kết giữa các tỉnh cũng như trong toàn vùng một cách hiệu quả về vấn đề này.
Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu đề nghị, dự thảo Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội về nội dung này cần đề ra các giải pháp cụ thể, không đề cập chung chung; cần lồng yếu tố về biến đổi khí hậu vào chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, quy hoạch vùng, miền, các dự án đầu tư; chú trọng khái quát các mô hình mang tính hiệu quả...
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đề nghị, Báo cáo của Đoàn giám sát cần đánh giá tác động biến đổi khí hậu của đồng bằng sông Cửu Long trong tổng thể vùng rộng lớn, trong đó có Tp. Hồ Chí Minh; nhiệm vụ ứng phó với biến đổi khí hậu cần được lồng ghép trong kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội. Trên cơ sở hoàn thiện chính sách pháp luật để làm tốt việc ứng phó với biến đổi khí hậu cho vùng đồng bằng sông Cửu Long và cả nước, Phó Chủ tịch Quốc hội đề nghị cần xác định cụ thể các mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài trong ứng phó với biến đổi khí hậu; làm rõ nguồn lực đầu tư trong nước và nguồn đầu tư từ nước ngoài, cơ chế chính sách khuyến khích xã hội hóa để tăng nguồn lực. Nhiều ý kiến đề nghị công tác tuyên truyền pháp luật về nội dung ứng phó với biến đổi khí hậu cần được tăng cường hơn nữa trong thời gian tới.