Con trai lừa bán nhà của cha ruột, lĩnh án 13 năm tù
Tòa tuyên án - Ngày đăng : 21:40, 18/08/2014
Bị cáo A Lin
Năm 1992, cha của Phạm A Lin là ông Lê Tâm Anh (định cư tại Mỹ), mua lại ngôi nhà số 32 (cũ) nay là 34 Phan Châu Trinh, TP Đà Nẵng với số tiền tương đương 50.000 USD. Do chính sách pháp luật của Nhà nước Việt Nam trong thời điểm đó chưa cho phép người nước ngoài sở hữu nhà tại Việt Nam nên ông Anh đã nhờ vợ chồng người em gái Lê Thị Đông và Lê Văn Hoàng (trú tại 336/12 An Mỹ, phường An Hải Tây, TP Đà Nẵng) đứng tên sở hữu giúp ngôi nhà nêu trên. Việc mua bán nhà thể hiện tại Hợp đồng chuyển dịch nhà ở số 795-03HV1C ngày 29.9.1992 được Phòng công chứng số 01 tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng (cũ) chứng thực.
Để tránh những tranh chấp về sau, ông Tâm Anh thỏa thuận với vợ chồng bà Lê Thị Đông, Lê Văn Hoàng làm đơn xin UBND phường chứng thực quyền sở hữu thực tế của ngôi nhà 34 Phan Châu Trinh là của ông Lê Tâm Anh, còn họ chỉ là người đứng tên giúp trong sổ nghiệp chủ và đã được UBND phường An Hải Tây ký xác nhận đơn ngày 07/11/1992. Ngay sau khi thủ tục mua bán nhà được xác lập, ông Lê Tâm Anh cùng 02 con của ông là Phạm A Luân và Phạm A Lin (trú tổ 09 An Thị, An Hải Tây, TP Đà Nẵng) đã dọn về ở, thời gian sau đó ông Anh thường xuyên đi và về giữa Việt Nam và Mỹ.
Năm 1997, do sợ có tranh chấp nhà với người em nên ông Lê Tâm Anh nhờ con trai ông là Phạm A Lin (lúc này còn độc thân) đứng tên chủ quyền căn nhà, ông yêu cầu vợ chồng bà Đông làm thủ tục chuyển tên ngôi nhà nói trên để con trai ông là A Lin đứng tên sở hữu và được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và đất (GCNQSHN&ĐƠ). Năm 2003 để tạo điều kiện cho các con làm ăn, ông Tâm Anh đã đầu tư vốn, sử dụng ngôi nhà 34 Phan Châu Trinh mở cửa hàng buôn bán đồ điện lạnh. Giữa ông Tâm Anh và A Luân (anh ruột của A Lin) đã lập giấy thỏa thuận vào ngày 28/08/2003 nên những vấn đề liên quan đến hợp tác kinh doanh, đồng thời trong giấy thỏa thuận cũng đề cập “Ông Tâm Anh là chủ sở hữu thực tế ngôi nhà số 34 Phan Châu Trinh”.
Năm 2007, lợi dụng trong thời gian ông Tâm Anh không có mặt tại Việt Nam, A Lin có ý định bán căn nhà do cha mình sở hữu cho người khác nhằm mục đích chiếm đoạt. Mặc dù không bị mất GCNQSDN&ĐƠ số 34 Phan Châu Trinh, nhưng A Lin làm đơn báo mất GCNQSDN&ĐƠ và lập hồ sơ xin cấp lại GCNQSDN&ĐƠ nói trên. Thời điểm này A Lin đã kết hôn với chị Huỳnh Thị Anh Vi (SN 1980) nên lập giấy thỏa thuận để chị Vi đứng tên đồng sở hữu tài sản ngôi nhà 34 Phan Châu Trinh.
Căn cứ đơn báo mất và đề nghị cấp lại GCNQSDN&ĐƠ, ngày 06/11/2007, UBND TP. Đà Nẵng có Quyết định số 8835/QĐ-UBND về việc thu hồi, hủy bỏ GCNQSDN&ĐƠ của UBND Tp. Đà Nẵng cấp cho A Lin (nhưng trong thực tế ông Tâm Anh đang cất giữ). Ngày 28/11/2007, UBND quận Hải Châu, TP Đà Nẵng đã cấp lại GCNQSDN&ĐƠ 34 Phan Châu Trinh cho vợ chồng ông A Lin và bà Huỳnh Thị Anh Vi đứng tên sở hữu.
Sau khi được cấp GCNQSDĐ và tài sản gắn liền với đất, Phạm A Lin đã nói dối với vợ chồng ông Hàng Trần Minh Châu là nhà của vợ chồng A Lin sở hữu, không có tranh chấp, thỏa thuận bán cho ông Châu giá 10 tỷ đồng. Ngày 16/01/2008, vợ chồng Phạm A Lin và Huỳnh Thị Anh Vi đã ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất nhà 34 Phan Châu Trinh cho vợ chồng ông Hàng Trần Minh Châu và bà Nguyễn Thị Thu Giang (trú 111 Phan Châu Trinh, TP Đà Nẵng) với giá giao dịch thực tế là 10 tỷ đồng (trong Hợp đồng chỉ ghi là 1,9 tỷ đồng), đã được Phòng công chứng số 1 Tp. Đà Nẵng chứng thực, Vợ chồng ông Châu đã giao cho vợ chồng ông A Lin 7 tỷ đồng và thỏa thuận số tiền còn lại sẽ giao đủ khi vợ chồng A Lin giao nhà vào thời điểm sau Tết nguyên đán 2008.
Cùng ngày, vợ chồng ông Châu thỏa thuận bán lại tài sản trên cho bà Hứa Thị Mộng Hoa (trú tại 46 Hoàng Diệu, Tp.Đà Nẵng) với giá 13 tỷ đồng, thỏa thuận bên mua chịu mọi khoản lệ phí thuế trước bạ sang tên từ vợ chồng A Lin. Bà Hoa đồng ý mua nhà và đặt cọc cho vợ chồng ông Châu 7 tỷ đồng, giao kết sau 10 ngày ra công chứng nhận bàn giao nhà, sẽ trả đủ tiền theo thỏa thuận. Để làm thủ tục sang tên từ vợ chồng A Lin sang vợ chồng ông Châu, bà Hoa đã cầm GCNQSDĐ và tài sản gắn liền với đất (bản chính) cùng hợp đồng chuyển nhượng giữa vợ chồng A Lin và vợ chồng ông Châu đến Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất Tp.Đà Nẵng tại quận Hải Châu đăng ký chuyển quyền sử dụng đất, làm các thủ tục sở hữu ngôi nhà 34 Phan Châu Trinh theo đúng trình tự, quy định của pháp luật về chuyển nhượng quyền sở hữu đất và tài sản gắn liền với đất. Ngày 21/01/2008, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất tại quận Hải Châu chứng thực quyền sở hữu cho vợ chồng ông Châu.
Ngày 25/01/2008, vợ chồng ông Châu lập Hợp đồng ủy quyền cho bà Hoa được quyền quản lý, sử dụng, định đoạt, cho thuê, cầm cố, thế chấp, bảo lãnh đối với nhà trên, thực tế là chuyển nhượng cho bà Hoa. Ngày 28/01/2008, bà Hoa thanh toán tiếp cho vợ chồng ông Châu 3 tỷ đồng bao gồm luôn cả khoản tiền thuế trước bạ, sang tên từ vợ chồng A Lin sang vợ chồng ông Châu, bà Hoa lập Hợp đồng thế chấp của bên thứ ba để Công ty TNHH Gia Bảo (do bà Hoa làm Chủ tịch HĐTV, kiêm Giám đốc) thế chấp ngôi nhà này vay vốn của Ngân hàng TMCP Dầu khí toàn cầu - Chi nhánh Đà Nẵng 11,5 tỷ đồng.
Tại tòa, A Lin chỉ thừa nhận bán nhà cho vợ chồng ông Châu và đã nhận 7 tỷ đồng, nay đã tiêu xài hết chứ không phải là 10 tỷ đồng như ông Châu đã khai. Trong khi đó ông Châu một mực cho rằng đã giao đủ cho A Lin 10 tỷ đồng. Về vấn đề này HĐXX xét thấy ông Châu không đủ tài liệu chứng cứ chứng minh việc A Lin nhận 3 tỷ còn lại nên không xem xét.
Đối với hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của A Lin thể hiện A Lin biết ngôi nhà này không thuộc quyền sở hữu của mình nhưng đã bán cho ông Châu và nhận số tiền 7 tỷ nói trên. Như vậy, A Lin đã cố tình lừa đảo ông Châu để chiếm đoạt số tiền này. Sau khi xem xét hồ sơ tài liệu cũng như quá trình thẩm vấn công khai tại phiên tòa, HĐXX đã tuyên bị cáo A Lin mức án 13 năm tù, buộc bị cáo bồi thường cho vợ chồng ông Châu số tiền 7 tỷ đồng.